Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Sưu tầm - Ngày Giáng Sinh
Chủ đề: Giáng Sinh
Tác giả: Lê Đình Thông
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Giáng
Sinh là ngày lễ của tình thương yêu, của hòa giải và tha thứ. Giáng
Sinh còn là ngày lễ của niềm vui của Thiên Chúa và của cả nhân loại,
vì "Đấng Cứu Nhân Độ Thế đã giáng trần, Người là Ki-tô Đức Chúa" (Lc
2, 11). Chúa Hài Đồng giáng sinh cách đây 2008 năm. Ngài là Đấng Cứu
Chuộc Nhân Loại. Như lời tiên tri đã phán, Thiên Chúa ban Đấng Thiên
Sai (Messie) cứu chuộc tội nhân trần: "Ngài từ bỏ địa vị Thiên Chúa,
mang thân phận phục vụ giống như mọi phàm nhân" (Pl, 2 6-7). Sau
cùng, Giáng Sinh là ngày lễ của những người khiêm hạ, vì Ngôi Hai
xuống trần mặc thân phận phàm nhân. Sau đây, ta lần luợt đề cập lễ
Giáng Sinh về hai phương diện lịch sử và văn học.
I - Lễ Giáng Sinh về mặt lịch sử:
Theo từ vựng Việt Nam, "Giáng (降) là
xuống, hạ xuống. Giáng thế: xuống thế, ra đời. Giáng sinh (降 生):
Sinh ra đời." (Paulus Huỳnh Tịnh Của, Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, Saigon,
Imprimerie Rey, Curiol, 1895, trang 369). Trước công trình ngữ học
của học giả Paulus tám năm, Petrus Trương Vĩnh Ký gọi lễ Giáng sinh
là "lễ sinh (sanh) nhựt Đức chúa Giê-giu" (Trương Vĩnh Ký,
Vocabulaire annamite-français, Saigon, Bản in Nhà hàng Rey et
Curiol, 1887, trang 184). Ngày nay, danh từ Giáng sinh ghi trong Đại
Nam Quốc Âm Tự Vị trở nên thông dụng. Trong Hán tự, Giáng (降) bộ Phụ
(阜) có nghĩa là thịnh vượng, to lớn (Không phải là Giáng có bộ
Thủy). Tiếng Pháp có chữ Nativité chỉ định ngày sinh của Đức Ki-tô.
Nativité (xuất hiện từ thế kỷ XII, do tiếng la-tinh nativitas) còn
được dùng để chỉ định sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria và thánh Gioan
Tẩy Giả (J. B.). Chữ Noẽl (xuất hiện khoảng 1120, do chữ la-tinh
Natalis) để chỉ lễ Giáng sinh của Chúa Ki-tô. Từ ngữ này trở nên phổ
thông và được quốc tế hóa. Chúng ta quen gọi là lễ Nô-en. Trong khi
"la Noẽl" là lễ Noẽl hoặc ca khúc Noẽl, "le Noẽl" được dùng để chỉ
quà tặng Giáng sinh. Thành ngữ Pháp có câu: Noẽl au balcon, Pâques
au tison (Giáng sinh ngoài bao lơn, Phục sinh trong củi lửa): Nếu
khí hậu Nô-en ấm áp, trời sẽ rất lạnh vào dịp Phục sinh.
Ngày nay, kỷ nguyên Ki-tô (ère chrétienne)
hay Kỷ nguyên Công giáo (viết tắt là Công nguyên) được áp dụng rộng
rãi trên khắp thế giới. Các tôn giáo khác giữ niên lịch riêng chỉ
dùng trong phạm vi nội bộ: Năm 2008 sẽ là năm 5768 của Do Thái giáo,
năm 1427 của Hồi giáo, v.v.
Sau khi lược bàn về lễ Giáng sinh về
phương diện ngôn ngữ, chúng ta cùng nhau bước qua lãnh vực sử học.
Hộ tịch Chúa Cứu Thế:
Ngày nay, mỗi khi có một hài nhi ra đời,
xã hội cấp giấy khai sinh, trên đó ghi tên do bố mẹ đặt cho, ngày
tháng năm sinh, nơi sinh, tên cha mẹ. Còn Chúa Giê-su Ki-tô thì sao?
Khi nhập thể, giấy khai sinh của Ngài chính là lịch sử cứu độ, đồng
thời là lịch sử nhân loại. Có thể tóm tắt từng đề mục trong "hộ
tịch" (état civil) Chúa Giê-su như sau:
Họ và tên: Tài liệu sử
học bằng tiếng Pháp ghi tên Ngài là Jésus le Nazaréen (Giê-su
Nazareth). Giê-su là tên Ngài. Còn Nazaréen (người Nazareth) là một
biệt danh (surnom) để chỉ nơi sinh của Ngài: Nazareth. Trong thư gửi
tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô viết: "Thiên Chúa đã siêu tôn
Người (exalté au-dessus de tout) và tặng ban danh hiệu trổi vượt
trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su,
cả trên trời dướt đất và trong nơi âm phủ (enfer), muôn vật phải bái
quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên
xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa."
Trong Cựu Ước, sách I-sai-a chép: "Chính
Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ
mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en". (Emmanuel
có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta: Dieu est avec nous).
Ngày sinh: Ngày lễ Giáng
sinh 25-12 được ấn định trong lịch phụng vụ của Giáo hội vào đầu thế
kỷ IV. Nhà văn Công giáo Clément d'Alexandrie (150-215) dựa vào văn
bản của thánh sử Lu-ca về việc các mục tử nghỉ đêm ngoài đồng, cho
rằng Chúa Ki-tô ra đời vào mùa xuân hơn là mùa đông, nên đề nghị
ngày 6-1. Sau cùng, lễ Giáng sinh được định vào 25-12 như hiện nay,
vì 25-12 là ngày lễ của thần mặt trời Mithra, trùng hợp với tiết
Đông chí (solstice). Sự ấn định này căn cứ vào sách Malachie: "Mặt
trời công lý sẽ mọc trên các ngươi là kẻ kính sợ Thánh Danh ta"
(Mais sur vous, qui craignez mon nom, se lèvera le soleil de
justice). Theo ý chúng tôi, sự ấn định này rất có ý nghĩa: Chúa
Giê-su Cứu thế được sánh với mặt trời công lý. Ngài đến thế gian để
cứu chuộc nhân loại đắm chìm trong tối tăm.
Nơi sinh: Linh mục
Lagrange trong cuốn Évangile selon saint Marc (Phúc âm theo thánh
Mác-cô) phân biệt giữa thành phố (ville), làng mạc (pays: petite
ville, village) và quốc gia (patrie). Các đơn vị địa lý này có thể
là nơi sinh (lieu de naissance), không nhất thiết là nguyên quán
(lieu d'origine). (Thí dụ: một em bé Việt Nam sinh ra ở Pháp nhưng
nguyên quán vẫn ở Việt Nam). Vì vậy, theo hai thánh sử Mát-thêu và
Lu-ca, Nazareth là nguyên quán của Chúa Giê-su. Theo Mát-thêu 2,1,
Chúa Giê-su sinh ở Bê-Lem. Lu-ca 2,4 nói thêm Bê-Lem là thành phố
của vua David. Theo Mát-thêu, Thánh Cả Giu-se và Thánh Mẫu Maria cư
ngụ ở Bê-Lem trước khi sinh hạ Chúa Giê-su. Theo thánh Lu-ca, Thánh
gia từ Nazereth tới Bê-Lem để tham gia cuộc kiểm tra dân số. Bê-Lem
(Beit Lehem, tiếng Do Thái, có nghĩa là nhà làm bánh mì) cách
Giê-ru-sa-lem khoảng 5km về phía nam. Địa danh này được ghi chép lần
đầu tiên trong sách Sáng thế (St 34, 19): "Rachel chết và được an
táng trên đường Ephrata, nghĩa là Bê-Lem" (Rachel mourut et fut
enterré sur la route d'Ephrata, c'est-à-dire Bethléem" (Gn 34, 19)
(La Bible TOB 1977, tr. 61)
Tên cha mẹ: Theo sử sách,
Thánh Mẫu tên là Mariam. Tên Thánh Cả là Giu-se. Các nhà sử học cho
rằng thánh Mác-cô đã giải thích trung thực danh hiệu "le fils du
charpentier" (con người thợ mộc). Cách ghi chép này trong cổ ngữ
araméen có nghĩa là "le charpentier" (người thợ mộc). Theo thánh
Lu-ca, thánh Giu-se là dưỡng phụ (père nourricier) của Chúa Giê-su.
Ngày 19-3 là lễ kính Thánh Cả Giu-se.
Phúc âm theo thánh Lu-ca thuật lại lịch sử
Đức Thánh Mẫu (Lc I, 36), Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel truyền tin
cho Đức Mẹ: nhờ ơn Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ sinh hạ một hài nhi
đặt tên là Chúa Con (Fils de Dieu). Đại lễ kính Đức Thánh Mẫu là
ngày 15-8. Từ cuối thế kỷ 18, Đức Mẹ hiện ra trước tiên tại La Vang,
sau đó là nhiều nơi khác, theo thứ tự thời gian như sau:
- La Vang (Việt Nam):
1798 - Giáo dân tôn kính Đức Trinh Nữ với danh hiệu Đức Mẹ La Vang
- Paris (rue du Bac):
1830
- La
Salette (Pháp): 1846
- Lộ Đức (Lourdes): 1858
- Pontmain (Pháp): 1871
- Fatima: 1917, Cách mạng
tháng 10 biến nước Nga thành cộng sản.
Các dĩa nhạc Noel ngợi ca Đức Mẹ qua bản
Ave Maria của Franz Schubert (1797-1828), Mozart (1756-1791),
Bruckner (1824-1896), Gounod (1818-1893), v.v. Các ca khúc này tôn
vinh Đức Mẹ trong lễ Giáng sinh và lịch sử cứu độ. Vì vậy, đoạn sau
sẽ được dành để triển khai chủ đề Thánh Mẫu.
- Đức Trinh Nữ trong lịch sử cứu
độ:
Đức
Trinh Nữ Maria còn gọi là Myriam, mẹ của Chúa Giê-su Nazareth (Jésus
de Nazareth). Làng Nazareth (bourgade de Nazareth) nằm trong tỉnh
Galilée ở phía Bắc Do Thái, giáp ranh Liban, thường được mệnh danh
là Galilée des nations: xứ sở của những người di cư tỵ nan.
Nhà thờ Saint Praxède có bức bích họa
(fresque), nhà thờ Saint Clément có bức tranh gồm nhiều viên gạch
vuông nhỏ ghép lại (mosaĩque) Đức Mẹ. Hai công trình mỹ thuật này
được thực hiện vào thế kỷ thứ VIII minh họa Đức Mẹ ngồi trên ngai,
có Chúa Hài Đồng ngự trong lòng. Cả hai cùng nhìn về một hướng.
Nhà thờ Đức Bà ở Bruges (Belgique) có
tượng Đức Bà với khuôn mặt cực kỳ thanh tú. Tại Ba Lan, quê hương
Đức Thánh Cha Gioan-Phao-lô II, có tượng Đức Trinh Nữ mầu đen
(Vierge noire), mô phỏng theo hình ảnh Mẹ-Đất (Terre-Mère). Về nguồn
gốc của danh hiệu Đức Bà (Notre-Dame): tại châu Âu, danh hiệu Đức Bà
xuất hiện đồng thời với ảnh tượng Đức Mẹ mầu đen. Trong ngôn ngữ
Ấn-Âu, Dame có nghĩa là nữ chủ nhân (maîtresse), nữ hoàng
(souveraine).
Người ta truyền tụng câu chuyện sau đây về Đức Bà thành Puy, thủ phủ
hạt Haute-Loire (Pháp): Một phụ nữ bị sốt nặng. Đức Mẹ hiện ra và
bảo bà tới nằm trên tảng đá chữa bệnh sốt (pierre des fièvres).
Người đàn bà vâng lời, liền được khỏi bệnh. Người phụ nữ này thuật
chuyện cho đức giám mục sở tại. Ngài tới quan sát tảng đá chữa bệnh
(rocher guérisseur). Lúc đó là mùa hè nhưng có lớp tuyết dầy phủ
trên phiến đá và cả khu vực xung quanh. Một con nai hiền chợt xuất
hiện trước vị giám mục, dẫm chân trên tuyết trắng, vẽ thành một họa
đồ kiến trúc. Để khỏi mất vết chân nai, vị giáo chủ cho trồng dậu
gai trên đường đi của nai. Ngày hôm sau, dậu gai biến thành hàng
tường vi nở hoa (églantier fleuri). Ngôi giáo đường ngày nay được
dựng từ lớp chân nai để vinh danh Đức Mẹ. Đó là một công trình kiến
trúc tuyệt mỹ, dung hợp giữa kiến trúc La Mã và kiến trúc Đông
phương. Trong nhà thờ có bức tượng Đức Bà Thành Puy nổi tiếng. Mái
nhà trên cung thánh là sáu vòm cung (coupoles).
II - Lễ Giáng Sinh trong văn học:
Noẽl là thời gian Trời mới - Đất mới giao
hòa. Trong những ngày này, nhạc và thơ hòa điệu, mỹ thuật gặp gỡ văn
học. Các nhà văn, nhà thơ nhặt sao sáng, rơm rạ còn thơm mùi lúa,
hơi ấm bò lừa và sự rung động của tâm hồn kết thành máng cỏ thi văn.
Sử học nhìn sự việc một cách khách quan. Văn học chú ý những xúc cảm
chủ quan. Vì vậy, nếu phần I của bài viết là lịch sử ngàn năm thì
phần II được bổ túc bằng những rung động, tuy nhất thời mà trở thành
thiên thu bất diệt. Phần thứ II gồm ba mục:
A - Thánh Phan-xi-cô và sự tích hang đá
B - Tinh thần Phan-xi-cô trong thơ Giáng sinh của Hàn Mặc Tử
C - Giáng sinh trong văn học Pháp
A - Thánh Phan-xi-cô và sự tích
hang đá:
Phan-xi-cô (1181-1226) trước hết là vị
thánh của nhân đức khó nghèo. Vì vậy, ngài có biệt danh là "il
Poverello" (người nghèo khiêm hạ). Tuy là vị thánh lập dòng các Anh
em hèn mọn (Ordre des Frères mineurs, viết tắt: OFM), ngài tự nguyện
là phó tế vĩnh viễn. Hang đá Bê-Lem là biểu tượng của khó nghèo. Vì
vậy, thánh nhân yêu mến lễ Giáng sinh. Chính Ngài đã nghĩ ra việc
dựng máng cỏ Noẽl để tôn kính Chúa Hài đồng và Thánh gia. Trước khi
thuật lại chiếc máng cỏ Noẽl đầu tiên được thực hiện theo sáng kiến
của thánh Phan-xi-cô, thiết tưởng nên nhắc lại một tích xưa nói lên
nhân đức khó nghèo của thánh lập dòng Phan-xi-cô. Năm 1223, thánh
nhân từ thành Assise tới Rô-ma để thỉnh cầu Đức Thánh Cha Honorius
IV (1210-1287) phê chuẩn luật dòng. Nhân dịp này, Đức Hồng y Hugolin
mời thánh nhân dùng bữa trưa cùng với một số vị khác. Thánh nhân tới
bàn tiệc, rút trong tay thụng nâu vài mẩu bánh mì đen bình dân vừa
xin được ngoài phố, mời các vị khách. Vị giáo chủ không vui trước
việc làm của thánh nhân, vì ngài khoản đãi bữa tiệc theo nghi lễ
(repas protocolaire). Nhưng tất cả đều vui lòng san sẻ cùng thánh
nhân bánh mì xin được. Sau bữa tiệc, vị giáo chủ nói với thánh nhân:
- Người anh em ơi, tại sao lại làm ta phải
cực lòng vì phải ăn xin, trong khi con là khách quý của ta? Con
không biết nhà ta chính là nhà của con, và những gì có trong nhà này
là của con hay sao?
- Lạy Ngài, thánh nhân lễ phép thưa lại,
bởi vì không có gì làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn nhân đức Khó nghèo.
Không phải là con muốn làm Ngài phải xấu hổ. Trái lại, con muốn làm
vinh danh Ngài nên nghênh đón Chúa ngự trong nhà Ngài. Thiên Chúa đã
chấp nhận sống nghèo ở trần gian chỉ vì yêu mến chúng ta.
- Con ơi, ĐHY Hugolin ôm chầm lấy thánh
nhân nghẹn ngào nói tiếp, con cứ làm theo ý con đi. Bởi vì, thật rõ
như ban ngày, Thiên Chúa ở cùng con. Chính Ngài đã dẫn dắt đường đi
nước bước của con.
Sau mẩu đối thoại làm xao xuyến lòng người
vừa kể, xin trở lại hang đá của thánh nhân. Theo tác giả Omer
Englebert, hai tuần lễ trước Giáng sinh năm 1223, trên đường từ
Rô-ma về Assise, thánh nhân dừng chân ở thị trấn Greccio (khoảng
giữa đường từ Rô-ma tới Assise), và gặp Jean Velita, một điền chủ
giầu có vừa từ bỏ binh nghiệp để nhập dòng. Kế cận Greccio là dải
núi đá bao quanh một thung lũng rộng. Trên núi đá thẳng đứng có một
cái hang, được che khuất bằng một hàng cây. Phan-xi-cô nói: "Ta mong
ước cử hành lễ Giáng sinh để suy tôn Chúa ra đời ở Bê-Lem, nhưng làm
sao thể hiện được nỗi cơ cực và khổ đau của Ngài ngay từ thuở còn
thơ để cứu chuộc nhân loại. Vì vậy, ta xin con làm một hang đá giống
như thật với cỏ khô. Con dẫn theo một con lừa và một con bò, giống
như bò lừa đã chầu quanh Chúa Hài đồng năm xưa".
Theo Celano kể lại, trong đêm Noẽl, các
anh em ẩn sĩ quanh vùng và dân làng đốt đuốc sáng trưng địa điểm
hành lễ. Đoàn người lặn lội men theo đường núi gập ghềnh, khúc khuỷu
tới trước hang đá. Bao nhiêu hang động xung quanh dội lại lời ca
nguyện của các thầy trợ sĩ, chen lẫn điệp khúc của cộng đoàn. Thánh
lễ cử hành trên một bàn thờ treo. Thánh nhân bận chiếc áo thụng
(dalmatique) của thầy phó tế, giúp vị chủ lễ. Ngài hát bài phúc âm,
công bố Tin Mừng cho những người thiện tâm và chia sẻ lời Chúa. Ngài
dùng những lời dịu ngọt để nhắc lại sự tích vị "Hoàng đế nghèo" sống
trước thánh nhân 12 thế kỷ, chào đời ở Bê-Lem. Người ta kêu ngài là
Giê-su, hoặc Hài đồng Bê-Lem (Enfant de Bethléem). Thánh Phan-xi-cô
bắt chước tiếng chiên lừa khi phát âm hai tiếng: "Bethléem"
(prononçant Bethléem comme un agneau qui bêle). Jean Velita kể lại
lúc thánh nhân bắt chước tiếng chiên lừa, hài nhi Giê-su đang yên
ngủ trong hang đá chợt thức giấc, nhoẻn miệng cười cùng thánh
Phan-xi-cô. Trong bút ký của thánh Bonaventura có đoạn chép rằng:
"Ba năm trước khi từ trần, thánh Phan-xi-cô quyết định mừng lễ Giáng
sinh trọng thể. Sau khi được Đức Thánh Cha cho phép, Ngài sai làm
máng cỏ, bảo người mang cỏ khô và dẫn một con lừa và một con bò (il
avait obtenu, du pape, les autorirations nécessaires. Il fit donc
préparer une crèche, apporter du foin, amener un âne et un boeuf).
Máng cỏ Greccio đã ban ơn thiêng cho nhiều người và cho cả những gia
súc bị bệnh tới gậm cỏ khô. Kể từ máng cỏ đầu tiên tại Greccio
(1223), hàng năm, tại các giáo đường và tư gia trên khắp thế giới,
người ta lại bày máng cỏ cùng với cây thông.
Tiếp nối truyền thống của thánh
Phan-xi-cô, trong số các nhà văn, nhà thơ công giáo Việt Nam khai
triển đề tài Giáng Sinh có thi sĩ Hàn Mặc Tử.
- Bài thơ Ra Đời của Hàn Mặc Tử:
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí
(1912-1940). Ông cố thi sĩ là Phạm Nhượng, vì can dự vào một vụ án
chính trí nên phải đổi tên thành họ Nguyễn. Khi chịu phép rửa tội,
thi sĩ nhận lãnh tên thánh là Phê-rô. Tới khi chịu phép thêm sức
thêm tên thánh Phan-xi-cô. Trong di ngôn bằng tiếng Pháp nhan đề
"Pureté de l'âme" (Tâm hồn trắng trong), thi nhân đã bày tỏ tinh
thần Phan-xi-cô không những qua chữ ký: François Trí, mà còn bày tỏ
lòng tôn kính sự tinh tuyền (blancheur immaculée), bình an (paix).
Niềm vui Phan sinh (joie franciscaine) cùng với nhân đức khó nghèo
và lòng bác ái là ba đạo hạnh Phan sinh.
Tập Xuân Như Ý có bài thơ Ra Đời, kết thúc
bằng hai câu: Chàng ơi, chàng ơi, sự lạ đêm qua, Mùa xuân tới mà
không ai biết cả. Theo cách nhìn của thi nhân, tuy nhân gian vẫn còn
là mùa đông, mùa xuân đã thực sự trở về trong lịch sử cứu chuộc. Vì
vậy, cung điệu của bài thơ Ra Đời ngây ngất, "hương cám dỗ mê người
trong khoái lạc". Bài thơ này đã được cố nhạc sư Hải Linh phổ nhạc
và trở thành ca khúc Giáng sinh quen thuộc.
- Giáng sinh trong văn học Pháp:
Sự kiện Chúa ra đời tại hang đá Bê-Lem
được cả hai thánh sử Mát-thêu và Lu-ca ghi chép. Cùng một sự kiện
này đã gây nguồn cảm hứng cho nhiều nhà văn, nhà thơ. Vì khuôn khổ
giới hạn của bài báo, chúng tôi chỉ giới thiệu một số sáng tác tiêu
biểu trong văn học Pháp, cả văn xuôi (prose) lẫn văn vần (poésie).
Văn xuôi
Trong các áng văn xuôi trình thuật việc
Chúa ra đời, phải kể tới các công trình của Blaise Pascal, Ernest
Renan và François Mauriac.
Trước hết là Pascal (1623-1662). Ông vừa
là nhà văn, vừa là nhà khoa học. Năm 1642, ông phát minh ra "máy số
học" (machine arithmétique) đưa đến việc phát sinh ra các máy tính
sau này. Sau hai năm suy nghĩ, ông quyết định dâng mình cho Chúa.
Bản tóm lược cuộc đời Chúa Giê-su-Ki-tô
(Abrégé de la vie de Jésus-Christ) của ông gồm 354 đoạn có đánh số.
Ba đoạn 6, 7, 8 trình thuật việc Chúa ra đời: "Ngày 25-12, Chúa
Giê-su-Ki-tô ra đời ở Bê-Lem thuộc miền Judée. Salomon kể lại gia
phả trong Mat. 1 1, và Nathan kể lại trong Luc 3 23. Các thiên thần
báo tin Chúa giáng sinh để các mục đòng tới thờ lạy. Sau tám ngày,
vào ngày 1-1, Hài nhi được đặt tên là Giê-su".
Tiếp theo, Ernest Renan (1823-1892) là một
học giả am tường cổ ngữ Do Thái. Trong thời gian diễn giảng ở
Collège de France, ông viết tác phẩm Cuộc đời Chúa Giê-su (Vie de
Jésus), giải thích các sử liệu một cách khoa học. Trong đoạn 2, ông
viết "Giê-su ra đời ở Nazareth, một thị trấn nhỏ miền Galilée, trước
đó chưa ai biết tiếng. Lúc sinh thời, ngài được gọi là 'người quê
quán Nazareth' (Nazaréen). (...) Danh hiệu Giê-su là một biến đổi
của chữ Josué."
Sau cùng là François Mauriac (1885-1970), một nhà văn hiện đại. Cuộc
đời Chúa Giê-su (La Vie de Jésus) ấn hành năm 1936 được nhiều ngưới
đọc nhất trong số các tác phẩm của ông. Ngay đoạn 1: Đêm Nazareth
(La nuit de Nazareth), ông chứng tỏ hành văn sáng sủa, bút pháp mới
lạ, khác với các bút ký lịch sử viết về cùng đề tài. Thay vì mô tả
lại sự kiện, ông nhắc lại lời tiên tri Michée: "Hỡi Bethléem
d'Ephrata, tuy nhà ngươi là một chi tộc bé nhỏ trong các chi tộc
Juda, nơi nhà ngươi sẽ sinh ra thủ lãnh nước Israẽl".
Các tiểu luận lược thuật trên đây chỉ
trình bày khác đi cùng một sự kiện. Ngược lại, trong thi ca
(poésie), nhiều bài thơ lấy cảm hứng từ Giáng sinh đưa ra nhiều hình
ảnh mới lạ.
Văn vần:
Trong văn học Pháp, thơ Giáng sinh tuy
không nhiều nhưng mang tính sáng tạo. Người ta tìm thấy sự tươi mát
trong những bài thơ Giáng sinh. Tuy sự việc Chúa Giáng sinh xảy ra
cách đây 2008 năm, nhưng cảm xúc của thi nhân luôn mới mẻ. Đó là làn
sương sớm (thi ca) che phủ một thực tại có chiều dầy lịch sử (giáng
sinh). Trong số thi ca lấy đề tài Giáng sinh có bài thơ Noẽl của
Théophile Gautier (1811-1872), văn phong giản dị nên rất dễ thương:
Le
ciel est noir, la terre est blanche:
-- Cloches, carillonnez gaîment! --
Jésus est né. -- La Vierge penche
Sur son
visage charmant.
(Trời đen đất trắng nhân trần:
- Chuông ơi, réo rắt xa gần điệu ru.
Hài nhi Cứu thế Giê-su,
Mẹ hiền trông xuống
Hài đồng dễ thương)
Victor Hugo (1802-1885), nhà
văn lớn nhất trong văn học sử Pháp, trước tác trường thi 132 câu,
vần liên tiếp, đặt tên là Celui qui est venu.
Trong bản trường ca Giáng sinh
này, tác giả Notre-Dame de Paris đã lược thuật cuộc đời Chúa Cứu
Thế. Trong đoạn 2, Victor Hugo viết:
On
racontait sa vie, et qu'il avait été
Par
une vierge au fond d'une étable enfanté
Sous une claire étoile et dans la nuit sereine;
L'âne et le boeuf, pensifs, l'ignorance et la peine,
Etaient à sa naissance, et sous le firmement
Se penchaient, ayant l'air espérer vaguement
(Lời truyền Đức Mẹ vào hang,
Hạ sinh Thiên Chúa chẳng màng khó khăn.
Vì
sao thắp sáng long lanh,
Bò lừa ngẫm nghĩ
điềm lành thế gian.
Cúi đầu ấp ủ Ngôi Hai,
Hài nhi bé nhỏ một mai cứu đời)
Nhiều nhà thơ thuộc các khuynh hướng thi
ca khác nhau như Alfred de Vigny, Lamartine, Verlaine cũng sáng tác
những bài thơ công giáo đầy rung cảm. Tuy nhiên, vì đề tài của các
bài thơ này không liên hệ đến lễ Giáng sinh nên không chép lại ở
đây.
Kết
luận:
Giáng Sinh là ngày lễ của những người khiêm hạ. Trong bài giảng Nửa
đêm tại Thánh điện Vatican năm ngoái (2007), Đức Thánh Cha
Bê-nê-đích-tô XVI đã chứng mình vì sao Thiên Chúa không bỏ loài
người trong khi một phần nhân loại dường như không còn dành cho Ngài
địa vị tôn kính nữa. Ngài mời gọi các tín hữu hãy ra khỏi tháp ngà
để lo cho những người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Chúng tôi viết bài
này vào mùa vọng tại Paris, ban đêm trời lạnh dưới không độ C. Nhớ
lại lời dặn dò của Đức Thánh Cha, chúng tôi có bài thơ Giáng Sinh
như sau:
Bê-Lem
Không Nhà
Một
ngàn năm như gió cuốn mây bay
(1),
Đêm hôm
trước Bê-Lem còn ngây ngất.
Một trời sao,
hội hoa đăng đường mật.
Và thần linh tấu
khúc nhạc mê say.
Nhạc âm vang đánh thức
các mục đồng,
Cùng chiên lừa theo sao sáng
phương Đông.
Sương khuya lạnh, tuyết cơ hàn
rét mướt,
Hang Bê-Lem vừa giáng thế Hài
Đồng.
Ngàn năm sau thiên niên kỷ thứ ba
(1),
Kẻ cùng đinh
sống vất vưởng không nhà.
Khác mục đồng,
lòng thiên hạ dửng dưng,
Không nhường cơm
sẻ áo nghĩa mặn mà.
Lạy Hài Nhi sinh hang lừa buốt giá,
Xin xót thương bao kiếp sống đọa đày.
Niềm
thương đau hàng ngày trên Thập giá,
Xin mưa
ơn cứu độ khắp đó đây.
Paris, Giáng Sinh 2008
Lê Đình Thông
Nguồn:
http://giaoxuvnparis.org/bai-viet/218--giang-sinh--ngay-le-cua-thuong-yeu-va-hoa-giai.html
Tác giả ghi chú:
(1)
‘‘Đối với Chúa, một ngày như thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một
ngày’’ (2 Pr 3,8)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trung tâm lưu trữ những buổi lễ Mừng Thánh Tổ SĐND/QLVNCH
|
Hình nền: Máng cỏ Giáng sinh. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: IBKT sưu tầm
http://giaoxuvnparis.org/bai-viet/218--giang-sinh--ngay-le-cua-thuong-yeu-va-hoa-giai.html
Đăng ngày Thứ Sáu, December 2, 2016
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang