Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề: 30-T4-Đ
Tác giả: Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Mùa
hè Cali có những cơn mưa bất chợt. Riêng buổi chiều nay dù ngoài
trời chói chang nắng hạ nhưng trong lòng tôi mơ hồ như đang ngập
những cơn mưa. Trước mặt tôi hôm nay là những cánh đại bàng đã phải
trải qua một cơn bão lửa. Cái hình ảnh bi tráng ấy thực sự đã gây
trong tôi bao điều cảm xúc.
Tôi được một người đàn anh, cũng là cấp
chỉ huy của tôi ngày trước, mời đến tham dự Buổi Họp Mặt Khóa Võ Bị
Đà Lạt của anh. Buổi họp mặt được đặt tên: Bảy Mươi Tuổi Đời – Năm
Mươi Tuổi Lính. Chỉ mới nghe qua cái tên thôi, cũng đủ cảm thấy ngậm
ngùi. Bởi ở tuổi bảy mươi, liệu các anh còn được gặp lại nhau bao
nhiêu lần nữa, để cùng nhắc nhớ một thời trẻ trung, trận mạc. Thời
mà hầu hết các anh đã từng là những cánh chim đại bàng xoải cánh
trên các trận chiến hào hùng, oanh liệt, nhưng cuối cùng đành phải
chấp nhận một kết cuộc tức tưởi, oan khiên.
Cách đây năm mươi năm. Buổi sáng ngày
11/11/1960, hai trăm mười người trai trẻ, xếp bút nghiên chọn đời
binh nghiệp, nhập học Khóa 17 VBQGVN. Vì nhu cầu chiến trường, họ đã
ra trường sớm hơn dự định. Chỉ sau các niên trưởng Khóa 16 ba tháng.
Ngày 30/3/1963, đúng một trăm tám mươi Tân Thiếu úy tốt nghiệp, hành
trang văn võ song toàn, như những cánh chim non rời tổ với đôi cánh
sẵn sàng thử thách trước phong ba, theo những mũi tên từ chiếc cung
của vị thủ khoa Vĩnh Nhi, bay đi khắp bốn phương trời lửa đạn.
Hôm nay, sau bao vinh nhục, thăng trầm,
những chàng trai trẻ ấy giờ đã trên dưới bảy mươi. Từ khắp nơi qui
tụ về đây với những mái đầu đã bạc. Nếu không phải vì cái tình đồng
môn Võ Bị, có lẽ hầu hết đều đang sống lặng lẽ ở đâu đó, như những
cánh đại bàng sau cơn bão lửa, xếp mảnh tàn y giữ lấy cho mình một
chút hào khí ngày xưa, dư âm của một thời tung hoành ngang dọc, sống
chết cùng đồng đội anh em, để tạm quên bớt phần nào đau đớn từ những
vết thương không lành được trong lòng.
Gặp lại nhau, gọi tên nhau mừng rỡ. Ngỡ
mình như những chàng sinh viên sĩ quan trai trẻ, ngày nào đứng trên
đỉnh Lâm Viên với hào khí ngút trời. Nhựng rồi sau khi hướng về lá
Quốc Kỳ cùng hát bài Quốc Ca năm xưa, tất cả đều thấy lòng chùng
xuống. Bởi còn có một điều gì đó làm họ đau đớn hơn vết thương trong
lòng họ: Quê Hương và Bạn Bè đã mất. Chương Trình được bắt đầu bằng
Buổi Lễ Tưởng Niệm Truyền Thống Võ Bị, tưởng nhớ và tạ tội cùng Núi
Sông, đồng đội, đặc biệt những đồng môn Võ Bị đã hy sinh, mà họ đã
chưa trả được món nợ máu xương này. Những mái đầu bạc lại cúi xuống
ngậm ngùi, thổn thức theo từng lời bi hùng như phảng phất đâu đây
bao oan hồn tử sĩ, của bài truy điệu mà tác giả là vị Chị Huy Trưởng
lỗi lạc vang tiếng một thời:
“Lúc
bấy giờ...
Nơi cánh đồng chiêm Bắc Việt
Bên con rạch nhỏ Cà Mau
Trong cánh rừng sâu
Trung Việt
Phút chốc... Liệt vị... đã trở
nên người thiên cổ
Ôi! sự nghiệp đan tâm
đeo đuổi
Nay phải đành gián đoạn nửa chừng
................
Mô đất lạ chôn vùi thân bách chiến
Đám
sương mù tàn tạ mảnh chinh y...
...................
Chí tuy còn mong hăm hở
Nhưng sức không kham nổi đoạn đường.”
Trên bàn thờ, tám mươi hai ngọn nến được
thắp lên, tượng trưng cho tám mươi hai vị đồng môn đã lần lượt hy
sinh lẫm liệt ngoài chiến trường, hay bị giết dã man trong các trại
tù cộng sản.
Con
chim đầu tiên gãy cánh, Thiếu úy Phan Tất Trí, chỉ mới bảy ngày sau
khi trình diện Sư Đoàn 2 BB, đã anh dũng hy sinh. Thiếu úy Đặng Ngọc
Khiết, trưởng toán Biệt Kích Delta, nhảy xuống miền Bắc, sa vào tay
giặc, bị xử tử tại chợ Ninh Bình năm 1964. Vị thủ khoa Vĩnh Nhi, với
biết bao hào quang đón chờ trước mặt, cũng đã bỏ mình bên bờ sông
Bảo Định, Mỹ Tho, vào buổi chiều mồng ba Tết Mậu Thân. Người mang
cấp bậc cao nhất, Đại tá Võ Toàn, vị Trung Đoàn Trưởng nổi danh của
SĐ1BB, đã mất theo cùng vận nước vào ngày cuối cùng của Quân Đoàn I.
Xác thân ông nằm lại ở một nơi nào đó trên quê nhà. Và người tử trận
cuối cùng, vào giờ thứ 25 cuộc chiến: Trung tá BĐQ Đoàn Đình Thiệu,
hy sinh vào lúc 10 giờ sáng ngày 30/4/75 tại Mặt Trân Phú Lâm, khi
quyết tử chiến cản đường địch quân tiến chiếm Sài Gòn. Sau ngày cuộc
chiến kết thúc trong tức tưởi, Trung tá Võ Vàng, một cấp chỉ huy nổi
danh ngay từ lúc còn là Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Động Quân, bị bọn CS
giết một cách man rợ và hèn mạt tại trại tù Kỳ Sơn, Quảng Nam. Trung
tá Huỳnh văn Lượm, vị Lữ Đoàn Phó của binh chủng TQLC hào hùng, cũng
đã chết một cách đau lòng trong trại tù Z30A Xuân Lôc. Tôi cũng thấy
đau nhói trong lòng khi được nghe các anh kể lại một đồng môn tài
ba, sống anh hùng và chết hiên ngang: Trung tá Phan ngọc Lương, một
tiểu đoàn trưởng nổi danh ở SĐ1BB bị trọng thương, cụt chân và phải
giải ngũ năm 1972. Sau đó anh làm quân ủy trung ương của đảng Đại
Việt, được Tướng Ngô Quang Trưởng mời làm cố vấn chính trị cho Ông.
Sau ngày miền Trung mất vào tay giặc, anh tổ chức và tham gia hoạt
động quân sự chống lại nhà cầm quyền cộng sản. Không may, anh cùng
một số chiến hữu lãnh đạo sa lưới và bị tử hình vào ngày 9 tháng 9
năm 1979. Đúng vào một ngày gió mưa tầm tã. Cái chết oai hùng của
anh gây rất nhiều xúc động cho nhân dân thành phố Huế.
Hôm nay, cũng có mặt bà quả phụ Võ Vàng và
cháu Võ Hải, trưởng nam của Đại tá Võ Toàn, đến họp mặt cùng với
những đồng môn của phu quân, thân phụ, mang theo nỗi niềm cùng ánh
mắt u uẩn của người thân đã mất. Tiếng chiêng trống cùng âm vang não
nùng của bài truy điệu làm nhiều người rơi lệ, dẫu nước mắt của họ
có lẽ đã khô cằn cạn kiệt. Trong hội trường, hầu hết những vị đã
từng là Trung Đoàn Trưởng Bộ Binh, Liên Đoàn Trưởng Biệt Động Quân,
Liên Đoàn Phó Biệt Cách Nhảy Dù, Phi Đoàn Trưởng Không Quân và một
số vị Tiểu Đoàn Trưởng nổi danh trên trận mạc. Tôi hình dung tới
những cánh đại bàng từng một thời oai phong lẫm liệt trên khắp các
chiến trường mịt mù lửa đạn. Sau ngày mất nước, hầu hết đều bị kẻ
thù giam cầm hành hạ hơn 13, 14 năm trong các trại tù Nam-Bắc. Ngày
trở về, cũng có bao gia đình chia lìa tan tác. Vậy mà trong gần hai
ngày được ở bên cạnh họ, tôi không hề nghe một ai tự ngợi ca thành
tích, chiến công, hay có một lời oán trách các vị chỉ huy, những
Tướng Lãnh đã bỏ họ ra đi trong giờ phút tử sinh.
Đứng trước họ, tôi cảm thấy mình thật nhỏ
nhoi. Thoáng xấu hổ về những chiến công, tù tội, cùng sự mất mát đã
từng kể lể với bạn bè. Tôi cũng đã từng bị thương tích trong chiến
tranh, tù đày ở các trại tù Nam-Bắc. Cha tôi cũng đã bị chết trong
một trại tù khi ở tuổi 70. Vợ con tôi cũng đã phải sống cảnh nheo
nhóc khốn cùng sau ngày mất nước. Nhưng so với họ, các điều ấy trở
nên quá đỗi bé nhỏ, tầm thường. Ngày xưa, tôi đã từng ngưỡng mộ họ,
khi họ là những con đại bàng lẫm liệt tung cánh trên khắp miền trận
mạc, thì hôm nay, tôi vô cùng cảm phục, dẫu cung kiếm không còn, họ
chỉ là những con đại bàng thương tích, mỏi mòn với năm tháng tha
hương. Nhưng ở đâu đó trong họ, tôi vẫn bắt gặp hào khí của người
lính chiến, lòng vị tha và nhất là tư cách của một cấp chỉ huy. Tôi
lại nhớ tới cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tôi nghiệp cho điều mong
ước và những dự tính của Ông đã phải đứt đoạn nửa đường. Khi quyết
định thành lập Trường Võ Bị Quốc Gia, Ông luôn kỳ vọng vào những sĩ
quan trẻ tuổi, xuất thân với đầy đủ khả năng văn võ để trở thành
những vị Tướng Lãnh liêm khiết tài ba, lãnh đạo Quân Đội, Đất Nước
sau này. Tiếc là vận nước điêu linh quá sớm. Chỉ cần vài ba năm nữa,
trong số những người đứng trước mặt tôi hôm nay, sẽ có nhiều vị Tư
Lệnh tài đức vẹn toàn, giữ vững được giang sơn.
Khóa 17 được chính Tổng Thống Ngô Đình
Diệm đặt tên Lê Lai. Có lẽ cái tên này đã quyện vào số mệnh của họ.
Dù tài ba thao lược đến đâu, cuối cùng họ cũng chỉ là những Lê Lai,
mà không bao giờ có thể trở thành Lê Lợi được.
Người đàn anh của tôi hôm nay, cũng từng
là một vị Trung Đoàn Trưởng trẻ tuổi, thao lược can trường. Chiến
thắng Kontum và giữ vững được Cao Nguyên trong Mùa Hè Đỏ Lửa, anh đã
góp một phần không nhỏ. Ngày 13-03-75, khi cùng toán quân đầu tiên
của Trung Đoàn từ Hàm Rồng, Pleiku đổ xuống Phước An, biết tình hình
không thể nào cứu vãn được Ban Mê Thuột, nơi có vợ con mình ẩn trốn
trong trại gia binh, anh vẫn hiên ngang đi đầu cùng những người lính
khinh binh. Từng đoàn xe tăng T54 và đại quân cộng sản theo QL21
tràn xuống Khánh Dương, bao vây Bộ Chỉ Huy nhẹ của anh trên đỉnh đèo
Chu Cúc, anh cùng vị Sĩ quan Hành Quân thoát được vòng vây. Nhưng đó
cũng chính là lúc anh cảm thấy tuyệt vọng nhất trong suốt cả đoạn
đời binh nghiệp. Bị tù đày hơn 13 năm. Sang Mỹ muộn màng theo diện
HO, nhờ trình độ Anh Văn khá, anh kiếm được việc làm sớm đủ để lo
lắng cho các con ăn học. Bây giờ anh sống lặng lẽ cùng với gia đình
ở ngoại ô thành phố San Jose, làm thơ Hoa Tâm và nghiên cứu về Thiền
Học. Gặp lại anh em đồng đội cũ, anh luôn dang rộng hai tay như muốn
ôm lấy hết cái tình huynh đệ, một thời cùng sống chết bên nhau. Và
chỉ có những lúc ấy, chúng tôi mới nhìn thấy đôi mắt anh sáng lên
cùng với nụ cười rạng rỡ. Nếu trong sách sử, có những trang từng ca
tụng những người lính chiến bại, thì hôm nay, tôi xin được viết thêm
những dòng nhỏ nhoi này để xin ca ngợi các anh, những cánh đại bàng
hào hùng sau một cơn bão lửa, vẫn luôn giữ được hào khí và cung cách
của mình. Cho dù, đối với các anh, bất cứ một lời ca tụng nào cũng
đã trở thành phù phiếm, thừa thãi tự lâu rồi.
Đất nước đang ngày một tan tác điêu linh
trong tay của đám người bất lương chiến thắng. Nhất định có lúc, dân
tộc sẽ viết lại những bản hùng ca dành cho những người bại trận oan
khiên tức tưởi năm xưa.
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trung tâm lưu trữ những buổi lễ Mừng Thánh Tổ SĐND/QLVNCH
|
Hình nền: Rặng Alps. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by ddcb chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu,
April 20, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang