Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Chính
trị Xã hội
Chủ đề: QH-30-T4-Đ
Tác giả: Tiểu Tử
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời tác
giả: Trong ngôn ngữ thông thường miền Nam Việt Nam trước tháng tư
1975, tiếng “ngụy” nghĩa là “giả” ít thấy có ai dùng tới. Cái gì
không phải thứ thật, không phải thứ “chánh cống”, không phải thứ
“có cầu chứng tại tòa”... là người ta gọi hoạch tẹt là “đồ giả”,
chớ không ai gọi là “đồ ngụy” hết. Ví dụ như rượu giả, thuốc giả,
vú giả, bạc giả, v.v.
Bởi vì từ ngữ hồi đó rất... thật!
Sau tháng Tư 1975, tiếng “ngụy” đã theo
gót dép râu (Xin lỗi! Chỗ này văn chương nghe chỏi lỗ tai một
chút, nhưng rất tả chân. Không thể viết “theo gót giầy” như xưa
nay thường viết, vì đối tượng ở đây toàn mang dép râu cả!) quân
nón cối và quân mũ tai bèo vào Nam làm cách mạng.
Sau biến cố, toàn dân miền Nam đều phải
đi “học tập” ba hôm. Chính trong ba hôm đó người ta mới nghe lần
đầu tiên tiếng “ngụy”. Và nghe đầy lỗ tai!
Vậy là đầu hôm sớm mai, tiếng “ngụy”
được nhét vào ngôn ngữ miền Nam một cách “ngang xương”, không cần
phổ thông đầu phiếu! Mới đầu nghe lạ hoắc, không hiểu ý nghĩa sâu
đậm của nó. Cũng chẳng có ai giải thích. Mà ví dụ có ai to gan
lớn mật đặt câu hỏi thì cán bộ cũng chỉ giải thích ngang như cua
thôi!
Thành ra
nhân dân miền Nam hiểu tiếng “ngụy” một cách rất tự do, và sử
dụng tiếng “ngụy” rất rộng rãi (được “giải phóng”, có khác!).
Thôi thì cái gì của miền Nam cũng đều biến thành “ngụy” ráo. Để
phân biệt với “cách mạng”! Thằng ngụy, vợ ngụy, con ngụy, lính
ngụy, chánh quyền ngụy, cơ sở ngụy, xí nghiệp ngụy, công nhân
ngụy, “hầm-bà-lằng” ngụy... Và người ta nghĩ một cách rất đơn
giản, rất thật thà: “Hễ thấy không có đóng con dấu ngôi sao đỏ
thì cứ xếp vào đồ ngụy, là ăn chắc.”
Thật ra, khi dán cái nhãn “ngụy” lên
miền Nam, “Đảng và Nhà Nước” muốn nhân dân “chủ yếu là nhân dân
miền Bắc” hiểu theo định nghĩa “ngụy” là giả, giả nhân giả nghĩa,
giả đạo đức, giả yêu nước thương dân, “ngụy” là đoạt của người ta
mà nói là của mình, là bịp, là láo, là phiến loạn...
Về sau, khi nhân dân cả hai miền đều mở
mắt, tiếng “ngụy” ít thấy dùng tới. Nhưng bây giờ thì mọi người
đều nhận ra ai mới đúng là ngụy. Lớp ngụy trang bị rơi xuống,
những ngụy ngôn bị vạch trần, thì chân tướng ngụy lòi ra rõ rệt,
đến người mù cũng phải thấy!
Viết dài dòng để “đả thông tư tưởng”
trước khi vào chuyện.
TT
Ông Tư Hận là thiếu tá quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông làm việc ở Bộ Tổng Tham Mưu.
Ông thuộc gia đình trung lưu. Hồi 1945, cha và anh của ông đi
kháng chiến rồi đi luôn ra Bắc. Từ đó, không được tin tức gì hết.
Mẹ của ông là giáo viên tiểu học, xem việc dạy dỗ trẻ con là một
thiên chức. Bà thường nhắc về người cha và người anh vắng mặt,
nhứt là người anh với những kỷ niệm đẹp của thời mà hai anh em
còn ở chung với nhau: “Anh Hai của con thương con lắm. Đi học về
là cởi trần rồi cõng con chạy cà bồng cà bồng quanh sân vừa chạy
vừa hí rân như ngựa làm cho con cười hắc hắc. Mà con thì hay
nhõng nhẽo với anh Hai con, đi đâu cũng bắt nó cõng hết. Còn khi
nào con đòi cái gì không được, con hay vừa khóc vừa la để ba
tưởng là anh Hai chọc con, ba rầy ảnh! Tội nghiệp! Những lúc thấy
con sắp sửa làm trận như vậy, anh Hai con thường đưa đầu biểu con
đánh nó đi chớ đừng khóc la, sợ ba rầy!” Rồi bà kết luận: Tánh
tình nó tốt lắm!
Ông lớn lên trong vòng tay người mẹ,
được giáo dục bằng tình thương, xem gia đình là căn bản, lấy đạo
đức làm phương châm. Và ông giữ mãi trong lòng sự mến mộ “người
anh Hai lúc nào cũng làm vui lòng em, lo lắng cho em, bảo vệ em.”
Mãi đến năm 1973, mới được tin qua một người bà con rằng cha mất
đã lâu và người anh bây giờ là tướng của “ngoài đó”. Thật là bàng
hoàng. Mẹ ông khóc hết nước mắt. Thời gian sau, bà nói: “Mẹ chỉ
mong cho mau hết giặc, để anh em con về sống bên mẹ yên vui như
ngày xưa. Chừng đó, mẹ mãn nguyện để theo ông theo bà.”
Mẹ ông qua đời vào giữa năm 1974, chưa
kịp thấy cảnh “hết giặc” ra làm sao và chưa kịp gặp đứa con làm
tướng...
Mấy hôm sau
ngày 30 tháng tư 1975, ông tướng nhờ người bà con đưa lại nhà ông
Tư Hận. Xa cách đã ba mươi năm, nhưng hai anh em vẫn nhìn ra được
nhau. Bởi vì họ giống nhau như đúc. Sau mấy giây ngỡ ngàng, họ xà
vào ôm lấy nhau siết chặt. Cả hai đều không cầm được nước mắt. Bà
Tư Hận và bốn đứa con, ba trai một gái, đã lớn hết, hai đứa đại
học và hai đứa trung học cấp hai đứng nhìn cảnh hai anh em ôm
nhau, cũng bồi hồi xúc động.
Sau đó là bữa cơm gia đình để hai anh
em kể cho nhau nghe những biến thiên của đời mình, của thời cuộc.
Tiếp theo là ông tướng mang hành trang lại ở với gia đình ông Tư
Hận, để có anh có em.
Ông bà Tư Hận có hai cái nhà. Cái mà
ông bà đang ở với hai con học trung học, là loại vi-la lầu có sân
lót gạch và vườn cây kiểng hồ cá trang trí theo kiểu Nhựt. Nhà
này do ông bà tự cất lấy hồi thời các con còn nhỏ. Về sau, ông
được thuyên chuyển ra miền Trung một thời gian. Ông đem hết gia
đình ra ngoài đó, để nhà cho Mỹ mướn. Nhờ vậy, mấy năm sau, ông
mua thêm một căn phố nhỏ cho hai đứa con trai lớn ở, khi chúng nó
vừa vào đại học.
Sau khi đi xem nhà, ông anh bảo:
- To thế thì ở làm gì cho hết? (Bây giờ
ông anh nói pha giọng Bắc rất nhiều). Nguyên cái buồng ngủ thôi
cũng chứa cả môt hộ bốn năm người đấy!
Hôm sau, ông Tư Hận được người anh
khuyên:
- Chú
làm cái vườn như thế này là phí đất. Đào lên đi để trồng trọt
khoai bắp cho các cháu có mà ăn. Phải biết tăng gia chứ!
Mới đầu, ông hơi phật ý. Nhưng, khi
nhìn sang hàng xóm thấy nhà nào cũng đào cũng xới kể cả dải đất
hẹp bé nằm dọc theo chân tường rào phía ngoài đường, ông nghĩ:
“Mình cũng phải làm như thiên hạ, cho yên thân”.
Vậy là cha con ông hè hụi đập nạy, cạy
khươi, gạch, bê-tông, hồ cá cho lòi đất rồi tỉa đậu trồng mì! Khu
vườn Nhựt Bổn mà ông Bà Tư Hận đã tự tay xây đắp, bây giờ tan
hoang lồi lõm giống như bãi đổ xà bần. Nhà ông Tư Hận bây giờ mới
thật sự mang nét cách mạng!
Ông anh “tên R
[Rận]” làm việc ở đâu,
hỏi không bao giờ nói. Chỉ thấy mỗi sáng có xe của cơ quan đến
rước, chiều đưa về. Ông Tư Hận, sau khi khai lý lịch ở tòa đô
chánh, tối ngày ngồi nghe tin tức qua ra-đi-ô. Bà Tư Hận không
dám nấu nướng trong bếp bằng lò ga. Bà sợ làm như vậy nó “ngụy”
quá đi, nên bà dựng ở hàng ba mấy cục gạch rồi nấu bằng than củi,
bằng lá khô... Bà kê cạnh đó một cái bàn thấp để chén đũa mắm
muối, còn nồi niêu dao thớt thì cứ bỏ nằm lỏng chỏng dưới đất bên
cái thau nhôm lớn đựng nước để dùng cho việc nấu nướng rửa ráy.
Nước lấy từ ống cao su trước đây dùng
tưới vườn. Nước dơ thì cứ tạt cha nó ra sân. Bà Tư Hận ngồi chồm
hổm làm bếp, chổng khu thổi lửa khói bay um tùm làm đôi khi bà
nhớ thời thơ ấu, bốn mươi mấy năm về trước, hồi ở dưới quê với bà
ngoại, bà hay nhìn bà ngoại nấu cơm như bà làm bây giờ. Chỉ khác
là hồi đó chưa có cách mạng! Ông anh có vẻ hài lòng về tác phong
của bà Tư Hận, nên khen: “Cô thật là sớm giác ngộ!”
Trình diện ngày 30/4/1975
Một hôm, đài phát thanh gọi các sĩ quan
ngụy đi trình diện học tập. Và nói rõ: “Đem theo tiền ăn cho một
tháng”. Ông Tư Hận lo lắng, hỏi ý kiến ông anh thì được trả lời:
- Chú cứ yên tâm đi học tập. Anh bảo
đảm không sao hết.
Vậy là ông Tư Hận hun vợ con, xách
ba-lô lên đường, còn dặn:
- Ở nhà có bác Hai “R[ận]”. Mẹ con bay
cần gì thì nhờ bác nghen.
Một tháng sau, không thấy ông về, bà Tư
Hận hỏi ông anh thì được trấn an một cách rất bình thản:
- Cô yên tâm. Vài hôm là về thôi!
Cứ thế, vài hôm rồi vài hôm... dài
dài... Bà Tư Hận nóng lòng, chạy đi gặp mấy bà bạn cũng là vợ sĩ
quan, mới hay rằng có thể chồng đã bị chở đi luôn ra ngoài Bắc.
Bà lau nước mắt, về quây quần với mấy con, ngồi đợi ông anh. Gặp
ông, bà mếu máo:
- Họ chở nhà tôi đi mất rồi.
- Đi đâu mà mất? Còn tập trung cải tạo
ở trong Nam chứ phải biệt xứ đâu mà mất? Đi học tập chứ đi tù đâu
mà cô sợ.
-
Nghe đồn trong trại khổ lắm. Nhờ anh can thiệp cho nhà tôi về. Dù
gì anh cũng là tướng và cha đã hy sinh vì cách mạng.
- Cách mạng không phải như ngụy đâu cô!
Không có chuyện móc ngoặc bè phái. Không có chuyện tư vị nể nang.
Luôn luôn xử sự có tình có lý. Chú ấy cứ học tập tốt là về ngay
thôi! Nói thế chứ, để tôi xem có làm gì được không.
Một hôm, ông anh họp các con ông Tư Hận
lại khuyên:
-
Ba các cháu là ngụy. Cách mạng khoan hồng gởi đi học tập cải tạo.
Ba các cháu có sớm được trả về hay không là còn tùy thuộc ở thái
độ học tập của ba các cháu. Và cũng tùy thuộc ở trình độ giác ngộ
cách mạng của má các cháu và các cháu nữa.
- Vậy, mình phải làm sao?
- Dễ thôi! Bác sẽ giới thiệu các cháu
vào đội thanh niên xung phong, nếu các cháu muốn giúp ba các
cháu.
- Vô đó
để làm cái gì, thưa bác?
- Để phục vụ nhân dân theo khả năng của
mình. Nếu các cháu có tinh thần phục vụ cao, Nhà Nước sẽ cho điểm
tốt trong việc cứu xét trường hợp của ba các cháu.
Sau một lúc bàn tính, cả bọn bốn đứa
đều đồng ý xung phong.
Bốn đứa được thâu nhận nhưng không cùng
ở chung một đơn vị. Phân tán chúng nó ra, cô lập từng đứa một, để
dễ theo dõi kiểm soát, tránh mầm móng phản loạn. Nhà Nước đi một
nước cờ thật cao! Chúng nó được đưa đi đào đất đắp nền ở các vùng
kinh tế mới hay đi đào kinh làm thủy lợi. Lâu lâu mới về thăm nhà
một vài hôm. Nhưng không bao giờ cùng về một lúc. Và đứa nào về
cũng xác xơ hốc hác, tay chân ghẻ lở giống như bị đi đày! Đứa con
gái trước đây học năm thứ bảy dương cầm ở quốc gia âm nhạc, bây
giờ tay cứng còng, không đánh nổi một bài tầm thường của hồi đó.
Bà Tư Hận nhìn các con mà đứt ruột. Cho nên mỗi lần đứa nào về,
bà cũng chạy lo thuốc men và nấu nướng cho ăn uống tẩm bổ. Chỉ có
ông anh là hài lòng và cho rằng đó là thành quả tốt đẹp của lao
động!
Một hôm, ông
anh bảo người em dâu:
- Bây giờ các cháu đã có Nhà Nước lo.
Cô giữ làm gì đến hai cái nhà? Đây là lúc mà cô phải chứng tỏ
trình độ giác ngộ cách mạng của mình bằng cách hiến cái nhà này
cho Nhà Nước để làm cơ quan phục vụ nhân dân. Như vậy, chú ấy có
cơ được về sớm.
Sau vài phút suy nghĩ, bà Tư Hận chỉ
bằng lòng cho Nhà Nước mượn thôi.
- Ừ! Thì cho mượn cũng được, tôi nghĩ
thế. Để tôi liên hệ với các đồng chí ấy xem sao.
Vậy là tuần lễ sau, bà dọn về căn phố
nhỏ ở cách đó độ mười lăm phút xe đạp, nhưng thuộc về một quận
khác. Sự chuyển hộ (nghĩa là dời chỗ ở, địa chỉ) không gặp khó
khăn, nhờ ông anh cách mạng (trong thời này, muốn chuyển hộ phải
làm đơn xin phép nơi mình sắp dọn đến. Phải “có lý do chánh đáng”
và điều này phải được chứng nhận bởi chính quyền nơi mình đang
ở!)
Khi đã
được chấp thuận (có ký tên đóng dấu) đương sự phải vác đơn đó về
trình cho chính quyền nơi đang ở để xin phép được di chuyển. Khi
được chấp thuận, ký tên đóng dấu, mình mới được quyền dọn đi!
Rắc rối như vậy nên lúc nào cũng có một
sự giải thích rất “có trình độ”: “Đằng kia có cho anh vô thì ở
đây tôi mới cho anh ra. Chớ tôi cho anh ra mà đằng kia không cho
anh vô thì anh đi đâu?”
Rõ như vậy, nhưng nhiều khi vác đơn đến
“đằng kia” trước, thì bị từ chối và dĩ nhiên được giải thích cũng
rất “có trình độ” không kém: “Anh phải xin phép nơi anh đang ở
trước rồi mới đến đây sau. Anh có được cho đi thì tôi mới nhận
cho anh đến. Chớ bảo tôi nhận cho anh đến, trong lúc anh chưa
được cho đi thì làm sao được? Phải có đi rồi mới có đến chớ! Dễ
hiểu thôi!”.
Cứ lẩn quẩn loanh quanh như vậy nên việc chuyển hộ thật là khó
khăn. Trong trường hợp chuyển từ tỉnh sang tỉnh hay từ vùng sang
vùng thì khỏi nói, thật là “trần ai gian khổ”!
Ông tướng có “động viên” một số đồng
chí trẻ trong cơ quan đến phụ dọn nhà cho bà Tư Hận. Và có cho
mượn một chiếc xe cam-nhông-nét (cũng của cơ quan) nên việc dọn
nhà cũng nhanh. Sau đó, ông anh cho bà ký tên tờ ủy quyền để ông
anh thay mặt bà quản lý cái nhà lớn mà ông đang ở. Bởi vì bây
giờ, bà đã chuyển hộ thì mặc nhiên ông anh trở thành chủ hộ ở
ngôi nhà đó, mà muốn sử dụng cái nhà thì phải có sự ủy quyền của
chủ nhà.
Mười
lăm ngày sau, bà Tư Hận được biết là nguyên cả tầng trệt nhà của
bà đã trở thành “tổ gạo”, còn ông anh thì vẫn ở một mình trên
lầu. Nghe nói bà tướng có vào thăm chồng một lần, ở độ mười lăm
hôm rồi trở về Hà Nội. Không hiểu sao ông tướng không có đưa bà
vợ lại thăm cô em dâu. Cách mạng có khác!
Bẵng đi một thời gian dài gần cả năm,
một hôm ông anh ghé nhà thăm bà Tư Hận để báo tin đã tìm ra trại
cải tạo của người em ở ngoài Bắc và chỉ vẽ cho bà cách thức xin
đi thăm nuôi, đường đi nước bước, xe cộ, v.v. và nhứt là những
thứ cần thiết như lương khô, quần áo. Nghe như vậy, bà Tư Hận đã
đoán ra phần nào đời sống của chồng ở ngoài đó, nên bà rớt nước
mắt hỏi:
- Sao
trước đây anh không nói rõ để tôi lo cho nhà tôi có đầy đủ phải
hơn không?
-
Chuyện Nhà Nước, đâu nói ra được. Cô phải hiểu như thế chứ!
- Cái gì cũng che đậy. Cái gì cũng giấu
diếm. Nhưng lần hồi thiên hạ đều biết hết. Bộ anh tưởng thiên hạ
đui sao?
Đến
đây bỗng nghe tiếng bà hàng xóm la lớn: “Đi đâu đó nữa? Mấy bữa
nay tao nói mày kê lại dùm mấy ông Táo kẻo mấy ổng sụm xuống thì
không còn khỉ gì để nấu nướng, mà mày cứ ăn rồi là xách đít đi
hà!”.
Giọng
người con trai: “Bộ má tưởng con đi chơi hả?”
Giọng bà hàng xóm: “Chớ đi đâu mà ngày
nào cũng đi, mày nói tao nghe coi!”.
Giọng người con, có vẻ hãnh diện, nói
rời ra từng tiếng: “Con-đi-phục-vụ-nhân-dân!”
Giọng bà hàng xóm tức tối: “Phục vụ
nhân dân! Phục vụ nhân dân! Con gái mẹ mày cũng là nhân dân đây
nè! Mày phục vụ cho nó đi! Kẻo không chổi chà nó đơm lên đầu bây
giờ!” Ngừng một lúc, lại nói: “Cha! Lúc này nói giọng cách mạng
quá há! Phải mà! Con mẹ buôn gánh bán bưng này hăm mấy năm nay nó
kềm kẹp mày quá mà! Nó nhét cho mày ăn để mày lớn! Nó ép mày học
để mày khôn! Nó ác ôn quá phải hông? Nó ngụy quá phải hông? Nó
giả nhơn giả nghĩa quá phải hông?”
Nghe đến đây, ông tướng nhăn mặt:
- Ăn với nói! Rõ là không có trình độ!
Rồi ông đứng lên:
- Tôi phải vào cơ quan. Bao giờ cô được
phép đi thăm nuôi, gặp chú ấy nhớ bảo tôi nhắn chú ấy luôn vững
tin vào sự sáng suốt của Đảng và Nhà Nước. Ta khác ngụy ở chỗ xử
sự có tình có lý và lúc nào cũng khoan hồng đối với những người
biết quay về với nhân dân.
Bà Tư Hận làm thinh, nhưng nhìn người
anh chồng chỉ có nửa con mắt!
Lúc đó, nghe tiếng thằng con trai nhà
hàng xóm: “Rồi đó! Con kê lại mấy ông Táo rồi đó.” Giọng bà mẹ,
vẫn còn hậm hực: “Dữ hôn! Có bao nhiêu đó mà cũng phải đợi tao
nhắc năm lần bảy lượt. Thôi! Mày đi phục vụ nhân dân của mày đi.
Chiều, vác mỏ về, con mẹ ngụy này nó nấu cơm cho mà ăn.”
Từ ngày dọn về đây, bà Tư Hận đi làm ở
tổ hợp may thêu gần đó. Cũng phải đi làm như thiên hạ để đừng bị
để ý theo dõi, chớ thật ra bà chưa đến nỗi túng thiếu nhờ đã cất
giữ nữ trang trong nhà thay vì gởi ở ngân hàng. Bây giờ, lâu lâu
bà bán một vài chỉ.
Bà hàng xóm (tên là bà Năm) có cái sạp
cháo lòng ở đầu ngõ. Sáng nào bà cũng đi bộ theo thằng con trai
đạp xe ba bánh chở thùng tô đĩa muỗng đũa, thùng lòng dồi gia vị,
nồi cháo lớn bằng nhôm, lò dầu hôi và mấy can nhựa đựng nước rửa
chén... ra cây trứng cá nằm trên lề đường Phan Đăng Lưu (tức là
đường Chi Lăng hồi trước).
Ở đây, có cái sạp gỗ dựng đứng và bốn
năm cái ghế gỗ nhỏ được xiềng vào gốc cây trứng cá. Hai mẹ con mở
ống khóa, hạ cái sạp rồi kê ngay ngắn dưới tàn cây. Xong, thằng
con về nhà lấy xe đạp, đạp đi “phục vụ nhân dân” cho tới tối.
Thành ra, đến trưa khi bán hết nồi cháo, bà chỉ bán có buổi sáng,
bà thu xếp dọn dẹp một mình, rồi đẩy xe ba bánh chở đồ nghề về
nhà (bà không đạp vì không biết đi xe đạp.)
Cứ vài bữa, bà lại mang biếu bà Tư Hận
một tô cháo lòng. Bà biết bà Tư Hận là vợ thiếu tá quốc gia và
chồng đi học tập nên bà hay tới lui thăm viếng để an ủi. Bà Tư
Hận thật cảm động. Có hôm bà nhắc chừng:
- Bà Năm cẩn thận. Có thể tụi nó theo
dõi.
- Ối! Cái
lũ cô hồn đó tôi đâu có sợ, cô Hai. Hồi tụi nó mới vô, bắt mình
làm tờ “báo công báo tội”. Tôi phát ghét nên khai là tôi tội lỗi
đầy đầu bởi vì gần hai chục năm nay tôi bán cháo lòng cho ngụy ăn
chớ không cho cách mạng ăn! Vậy mà có thấy thằng nào đụng tới tôi
đâu, cô Hai!
-
Coi vậy chớ cũng nên coi chừng, bà Năm à! Nhứt là khi bà rầy la
thằng nhỏ, nói đụng chạm tới họ quá, không nên.
- Tụi nó đã coi mình là ngụy thì cứ thí
mạng cùi chửi cho sướng miệng. Tội vạ gì mà nín thinh? Há?
Nói xong, bà Năm nhếch mép cười, làm
như bà đang thách đố cách mạng vậy!
Khi bà Tư Hận được giấy phép đi thăm
nuôi chồng, bà báo tin cho bà Năm và nhờ bà Năm coi chừng nhà
giùm. Bà Năm mừng rỡ, làm như ông Tư Hận là người nhà:
- Dữ hôn! Tới bây giờ mới cho con người
ta đi thăm nuôi. Quân ác ôn! Được rồi, cô Hai cứ yên tâm, tôi giữ
nhà cho. Mà chừng nào cô Hai định đi?
- Chắc mười hôm nữa, bà Năm à. Để có
thì giờ lo cho đầy đủ. Chớ gấp rút quá thì quên trước quên sau.
- Cô Hai nói phải đó. Đi ra tới ngoài
Bắc chớ bộ gần gụi gì hay sao?
Ngừng một chút, bà Năm cầm tay bà Tư
Hận lắc nhẹ:
-
Cần gì thì cứ nói nghe cô Hai, đừng ngại. Mình với nhau mà.
Bà Tư Hận xúc động, lí nhí “cám ơn” mà
nước mắt chảy quanh.
Lạ quá! Chỉ có mấy chữ “mình với nhau”
mà sao nghe ấm cúng vô cùng. Nhứt là trong hoàn cảnh này, trong
giai đoạn này. “Mình với nhau” là sự nhận diện của những người
cùng đứng về một phía. “Mình với nhau” nói lên sự cảm thông của
những người cùng cảnh ngộ, cần nương tựa vào nhau, nâng đỡ nhau
để sinh tồn. “Mình với nhau” là tình người không dị biệt giai
cấp. Cho nên, khi mở rộng vòng tay, bà Năm cháo lòng chỉ cần nói
có mấy tiếng đó thôi là quá đầy, quá đủ.
Hai hôm trước ngày bà Tư Hận khăn gói
đi thăm chồng, bà Năm qua nhà đưa một lon ghi-gô được ràng [buộc]
chằng chịt bằng dây thun:
- Cô Hai cho tôi gởi ổng lon thịt chà
bông. Tôi làm có hơi mặn để ăn cho lâu. Tôi ém chặt và ràng kỹ,
cô Hai đừng lo đường xa nó sút sổ. Cô cho tôi gởi lời thăm ổng,
nghen.
Bà Tư
Hận “cám ơn” mà có cảm tưởng như bà Năm là người trong quyến
thuộc!
Trong
khi đi ra cửa, bà Năm còn quay lại nói:
- Cô Hai đi yên tâm. Tụi nhỏ của cô có
về chơi thì tôi lo cơm nước cho hết. Cô nhớ viết ít chữ để lại
cho tụi nó biết nghen!
Bà Tư Hận gật gật đầu, nhìn theo mà
thấy bà bán cháo lòng đó còn cao cả gấp mấy mươi lần người anh
chồng làm tướng của cách mạng!
Đi thăm chồng về, bà Tư Hận như già đi
năm bảy tuổi. Mắt bà sưng húp, tóc tai rối bời, mặt mũi hốc hác.
Bà Năm nhìn bà Tư Hận, động lòng chảy nước mắt. Ngồi xuống bên bà
Tư Hận, bà Năm hỏi:
- Sao, cô Hai? Khổ lắm phải không?
Bà Tư Hận mếu máo khóc, chỉ gật gật đầu
chớ không nói được một lời. Bà Năm nhích lại gần, choàng tay ôm
vai bà Tư Hận, chửi đổng:
- Mẹ bà nó! Quân ác ôn!
Bà Tư Hận bỗng quay sang ôm chầm lấy bà
Năm, khóc nức nở. Vừa khóc vừa cố gắng nói, câu nói đứt ra từng
khúc:
- Ảnh...
ốm... đến nỗi... tôi... nhìn... ảnh... không ra...
Đến đây, bà Năm cảm động nghẹn lời. Bà
chỉ còn biết vuốt vuốt lưng bà Tư Hận, giống như bà đang vỗ về
người em gái.
Hôm sau, bà Tư Hận đội nón lá cầm cái thơ ông Tư Hận viết cho
người anh để gởi gắm vợ con, đi bộ về cái vi-la của bà ở quận kế
bên. Bà cố tình đi bộ, vì bà nghĩ đến chồng. Đối với những gian
khổ cùng cực mà chồng bà đã chịu đựng từ bao nhiêu năm nay, theo
lời kể lại của ông Tư Hận, thì sự đi bộ của bà không thấm thía
vào đâu hết. Nhưng, khi bà đi bộ, bà tưởng chừng như bà đang chia
sẻ một phần nào những khổ dịch của chồng, người tù cải tạo.
Vi-la của bà, bây giờ thấy khác trước.
Tường rào đã xây lên cao. Cổng song sắt được gắn thêm lưới sắt ô
vuông. Nhìn vào trong không còn tổ gạo, mà sân thì đã được tráng
xi-măng lót gạch khía sạch sẽ.
Thấy có bóng người, bà Tư Hận bấm
chuông. Có giọng đàn bà hỏi vọng ra, giọng Bắc:
- Ai đấy?
- Dạ... tôi.
Một bà cỡ tuổi bà Tư Hận bước ra hất
hàm:
- Chị
muốn gì?
-
Thưa tôi muốn tìm ông Hai “R”. Nhà tôi có viết cho ổng cái thơ.
- Đồng chí “R” à? Đồng chí ấy đã phục
viên lâu rồi. Đồng chí bán nhà cho chúng tôi, xong, dọn hết về
thủ đô. Thế chị là gì của đồng chí ấy?
Bà Tư Hận choáng váng mày mặt, chỉ còn
kịp tỳ người vào trụ cổng để khỏi qụy xuống. Tuy nhiên, bà vẫn
nghe tiếng mình nói:
- Dạ... Tôi... À... Không!
Rồi câm luôn. Thấy bên ngoài làm thinh,
bà người Bắc bỏ đi vào trong, nhưng vẫn nói vói ra:
- Đồng chí “R” hiện ở đâu, tôi cũng
không biết. Thôi, chị về đi!
Phải một lúc lâu sau, bà Tư Hận mới
hoàn hồn. Bà đứng thẳng nhìn vào trong. Bà bỗng thấy bà đã biến
thành một người khác. Một người cứng rắn hơn, lì lợm hơn. Một
người sẽ dám nhìn thẳng vào mặt kẻ địch mà chửi như bà Năm Cháo
lòng.
Ví dụ có
người anh chồng đứng trước mặt bây giờ, bà sẽ xáng cho anh ta một
bạt tai, điều mà trước đây bà chẳng bao giờ dám làm dám nghĩ!
Bà Tư Hận vẫn đứng thẳng, nhìn vào
trong. Mắt mở to, ráo hoảnh. Môi mím chặt. Tay bà vò nát cái thơ
của chồng viết. Bà vò nó mà bà không hay! Bà chỉ cảm thấy một sự
căm thù đang dâng lên làm bà rạo rực. Bà nghe buồn nôn!
Phải rồi! Bà muốn nôn mửa lên những giả
dối gian manh mà bọn chúng nó thằng nào cũng có sẵn trong đầu. Bà
muốn nôn mửa lên những lời lẽ giả nhân giả nghĩa mà bọn chúng nó
thằng nào cũng có sẵn trên đầu môi chót lưỡi. Bà muốn nôn mửa lên
những thủ đoạn xảo quyệt được ngụy trang bởi những chiêu bài yêu
nước thương dân, có nghĩa có tình... mà bọn chúng nó thằng nào
cũng sẵn sàng hành động. Bà muốn... Bà muốn...
Bà Tư Hận liệng cái thơ nhàu nát xuống
đất, phun nước miếng nghe cái phụt một cách khinh bỉ, rồi cúi
lượm cái nón lá bỏ rơi khi nãy đội lên đầu, đi thẳng.
Mấy năm sau, ông Tư Hận vẫn “còn được
cải tạo”, bà Tư Hận lâu lâu vẫn lặn lội đi thăm nuôi chồng, hai
thằng con lớn vượt biên rồi định cư ở Úc, đứa con gái lấy chồng
đánh cá ở Minh Hải, thằng con út cặp với con bạn cùng xóm mở quán
cà phê vỉa hè cạnh hàng cháo của bà Năm. Còn bà Năm vẫn bán cháo
lòng, lâu lâu vẫn chửi thằng con mà giống như bà chửi Nhà Nước!
Tiểu Tử
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trung tâm lưu trữ những buổi lễ Mừng Thánh Tổ SĐND/QLVNCH
|
Hình nền: 30-Tháng Tư -Đen . Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by ddcb chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, April
18, 2017
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang