Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Giới thiệu Sách
Chủ đề:
30-T4-Đ
Tác giả: Trần Mộng Lâm
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Cuộc
chiến Việt Nam 1954-1975 sau cùng xét lại chỉ là một cuộc chiến
tranh tàn hại trong lịch sử nhân loại nói chung, và của nước
Việt Nam nói riêng. Sự kết thúc của nó đã đẩy ra khỏi đất nước
gần 3 triệu người Việt và làm dân tộc này vào một sự chia rẽ vô
phương hàn gắn. Thường thì sau mỗi cuộc chiến tranh như vậy xuất
hiện những tác phẩm văn chương nói lên thân phận của những người
vì tai trời, ách nước phải trở thành nạn nhân bất đắc dĩ của
thời cuộc. Họ không phải là những người lãnh đạo, cũng chẳng có
danh phận, chức tước nào ngoài danh phận phó thường dân nhưng ở
vị trí này, họ trở thành những nhân chứng quan trọng cho một
thời đại, một biến cố mà Lịch Sử chính thức không thể ghi lại
một cách trung thực được. Chúng ta đã đọc Chiến Tranh và Hòa
Bình, Cuốn Theo Chiều Gió, Bác Sỹ Gi-va-gô, Giờ Thứ 25... và say
mê với các tác phẩm này. Thế nhưng cuộc chiến vừa qua tại đất
nước chúng ta thì chỉ thấy xuất hiện về sau những tập hồi ký ghi
lại những sự kiện riêng biệt của một nhân vật nào đó, vào một
giai đoạn nào đó, có thể là một trận đánh, một thời gian cải
tạo, một cuộc vượt biên, một cuộc đời làm lại nơi xứ người. Hiếm
có một hồi ký nào ghi lại cả một cuộc đời, tương tự như cuốn
tiểu thuyết BS Gi-va-gô của nhà văn Nga, Boris Pasternak. Rất
may, cuốn hồi ký Sống Chẳng Còn Quê của Trần Xuân Dũng vừa xuất
hiện năm 2018 đã giúp chúng ta và con cháu thấy được cái thảm
kịch của Việt Nam thế kỷ 20 qua những gì ghi lại của một người
Việt Nam, một thanh niên tầm thường như hàng triệu thanh niên
khác, không phải là một nhà cách mạng hay lý thuyết gia, cũng
không phải lãnh tụ tôn giáo như các ông Hồ Chí Minh, Ngô đình
Diệm, Ngô đình Nhu hay Thích Trí Quang, v.v.
Cuốn Hồi Ký
Sống Chẳng Còn Quê của Trần Xuân Dũng dầy 683 trang, trình bày
trang nhã. Hình bìa là hình một căn nhà bằng gỗ, có dàn mướp hoa
vàng, trái xanh. Hình bìa sau là một nông trại tại Úc, với cây
cổ thụ cao ngất trời. Hai tấm hình, hai nơi chốn, hai giai đoạn
của một đời người, đời tác giả. Nếu chỉ hiểu cuốn sách này là
một hồi ký của một cuộc đời, thì cuộc đời đó đầy chông gai, nước
mắt. Tuy nhiên, người đọc có cảm tưởng là mục đích của tác giả
khi ngồi viết 683 trang sách không phải là chỉ để ghi lại cuộc
đời mình, mà tác giả muốn qua nó, viết lại lịch sử của toàn thể
Việt Nam, từ năm 1939, là năm sinh của tác giả, cho đến ngày hôm
nay. Có thể nói, tác giả khi ngồi viết lại cuốn hồi ký này, ông
đã làm cái việc mà nhà văn Đoàn Thêm gọi là Đem Tâm Tình Viết
Lịch Sử. Có lẽ chúng ta không cần biết đến thân thế của chàng
trai Việt này, tuy việc tìm hiểu không khó. Cái mà chúng ta cần
biết là ông là một nhà thơ rất có tài, và đồng thời ông là một
nhiếp ảnh gia, đồng thời là một nhà khoa học. Hai yếu tố này
khiến ông mô tả rất chính xác những sự kiện ông chứng kiến trong
cuộc sống hàng ngày.
Trần Xuân Dũng đã trải qua một thời
thơ ấu rất gian truân, đánh dấu bằng nạn đói năm Ất Dậu 1945.
Năm đó, vì sự ác độc của quân đội Nhật, bắt dân bỏ việc trồng
lúa để trồng đay cung cấp cho chiến trường (Thế Chiến Thứ 2),
Việt nam trải qua một nạn đói vô cùng khủng khiếp. Hãy xem ông
thu vào ống kính cảnh tượng thê thảm của nạn đói này:
Một buổi sáng, tôi đang ngồi trong cửa
sổ nhìn ra ngoài đường, chợt nghe tiếng lọc cọc. Tiếng xe bò lăn
trên đường. Từ phía thành Vinh về hướng nhà Ga. Xe tới gần,
không thấy bò kéo xe mà là người. Hai người gầy yếu cố kéo cái
xe đi từng chút một, trên xe có vài xác chết trộn lẫn với một ít
bột vôi trắng. Những cái xác nằm trên xe đã rất gầy. Mặt thụt
vào, da nhăn nhúm, tay chân không còn thịt. Có xác chỉ mặc có
một cái quần đùi. Có xác mặc áo quần, nhưng đã tả tơi rách nát.
Nhưng có điều là khuôn mặt nào cũng gần như giống nhau. Da bám
sát vào xương mặt. Mầu trắng bệnh nhợt nhạt, như không có máu đã
lâu ngày. Môi họ đều khô cong, dường như có nhiều lằn nứt dọc...
Những đám ruồi hiện đang bay hay đậu vào mặt những xác này.
Như thế đó, nạn đói năm Ất Dậu
tại thành phố Vinh.
Chính trong hoàn cảnh đau thương này
mà đảng cộng sản Việt Nam có cơ hội nắm chính quyền. Việt Minh,
thuở khởi đầu, chỉ là một bọn cơ hội chủ nghĩa. Với quyền sinh
sát trong tay, nhân danh cách mạng, chúng làm mưa làm gió, giết
người qua những bản án trời ơi đất hỡi, tuyên án bởi những quan
tòa chưa từng học qua một ngày tại các trường Luật. Những ai
tưởng rằng những người CS hồi đó trong sạch, có lý tưởng lầm to.
Cha của tác giả chỉ vì đã làm việc trong một nhà ga nên coi như
là đã cộng tác với thực dân Pháp nên bị họ bắt cầm tù. Việc đó
khoan nói là oan hay ưng. Chỉ biết rằng việc ông được thả ra
hoàn toàn là do đút lót và mỹ nhân kế, qua sự trung gian của một
người đàn bà có nước da trắng, ăn mặc tân thời, người ta gọi là
cô giáo, nhưng có vóc dáng của một cô đầu. Việt Minh tham nhũng
và dâm ô kể từ những năm cuối của thập niên 40 chứ không phải
sau này.Tiếng cách mạng chỉ là trên đầu môi chót lưỡi, và người
dân cũng biết là như vậy nhưng với vũ khí cung cấp bởi Mao Trạch
Đông, người dân Việt không làm gì được để chống đối. Họ chỉ có
thể bỏ vùng do Việt Minh kiểm soát để về Hà Nội, tuy là thành
phố này do người Pháp cai trị.
Trái với những gì CS sau này tuyên
truyền, tác giả cho biết quang cảnh Hà Nội trước Genève:
Năm 1953, tình hình Hà Nội sáng sủa
nhất. Thủ đô phát triển về mọi mặt rất nhanh. Sự thịnh vượng và
huy hoàng lộ rõ (Trang 179).
Rất tiếc tại các nơi ngoài thành phố,
vùng do họ kiểm soát, Việt Minh khủng bố người dân với những
việc đấu tố của Cải Cách Ruộng đất, chém giết thẳng tay. Bởi
vậy, việc người dân Miền Bắc di cư vào Miền Nam sau Hiệp định
Genève chỉ chứng tỏ một điều là lòng dân chán ghét CS ngay từ
những năm 50 của thế hệ trước. Chẳng có chiến đấu vì độc lập, tư
do gì hết. Tất cả đều do họng súng và do cộng sản Quốc Tế, đặc
biệt là cộng sản Tầu. Cuốn hồi ký của TXD nói rõ điều này và
những gì CS tô hồng chuốc lục cho sự nhiệp cách mạng của họ sau
này đều là nói láo. Việc này mọi người đều rõ, và sự sợ hãi, cúi
đầu cam chịu của người dân trước sự lộng hành của CS chỉ cắt
nghĩa được bằng sự sợ hãi. Sợ đến nỗi một người như Nguyễn Tuân
sau này phải thú nhận là ông ta sở dĩ sống sót được là vì biết
sợ. Nói điều này chỉ là để xác nhận một điều: cộng sản chẳng qua
chỉ là một bọn cướp, một bọn Mafia gieo rắc kinh hoàng cho người
dân chẳng khác Al Capone tại Nữu Ước ngày xưa.
Sau hiệp
địmh Geneve, tác giả theo gia đình di cư vào Miền Nam. Tại đây,
dưới chế độ Tư Do của Việt Nam Cộng Hòa, TXD đã có những năm
tháng hạnh phúc. Tại trang 267 của tập hồi ký, ông viết: Học
sinh vui sướng, tinh thần thoải mái. Chẳng ai bảo ai, toàn bộ
học sinh CVA đều rất kính phục TT Ngô đình Diệm. Và cảm ơn nữa.
Nhưng dòng này tác giả viết tại Úc, sau khi TT Ngô đình Diệm đã
qua đời trên 60 năm, không thể nói là để tuyên truyền hay vì áp
lực nào khác. Đó là sự thực, 100% sự thực. Những ai thuộc thế hệ
tác giả, trong đó có tôi, có thể xác nhận điều này. Nếu không có
bọn CS và cuộc chiến sau này do chúng gây ra, thì chắc chắn là
Việt Nam ngày nay đã khác xa, đã tiến bằng hay tiến hơn Đại Hàn.
Cuộc sống của người dân Miền Nam sau
1954 là một cuộc sống đã dược tác giả tả lại tại trang 279: Sài
Gòn sống trong cảnh thanh bình, thịnh vượng. Tôi đậu tú tài một,
rồi tú tài hai, ban toán. Nhờ Việt Nam Cộng Hòa, TXD lên đại học
và vào trường Y Khoa. Rất tiếc, đến giai đoạn này, cuộc sống của
người Miền Nam không còn được CS để yên nũa. Chúng đã một mặt
mua chuộc được những người Miền Nam nhẹ dạ (như một ông trưởng
giả người miền Nam là hàng xóm của ông trong đồng Ông Cộ), một
mặt xua quân vượt vỹ tuyến 17 vào Miền Nam gây nên một cuộc
chiến tranh vô cùng thảm khốc kéo dài mãi đến 1975, trong đó gần
3 triệu thanh niên đã bỏ mình, lãng nhách, không có gì có thể
biện minh cho sự cần thiết của cuộc chiến này. Như đa số các
thanh niên Miền Nam, TXD đã vào quân đội, không vì muốn chiến
thắng ai, mà chỉ để bảo vệ nếp sống mà mình đã chọn. Nhưng người
thanh niên Miền Nam, ưa hòa bình nhưng không còn một lựa chọn
nào khác là hy sinh. Hãy nghe tác giả nói về trường hợp một
người lính Miền Nam: trang 373: Một người từ ngày nhập ngũ tính
đến nay đúng mười năm. Anh ta cứ ở nguyên một chỗ trên một nơi
hẻo lánh, đó là một ngọn núi trong tình trạng vô cùng nguy hiểm,
Hàng ngày, pháo kích của Việt Cộng rơi xuống chỗ đóng quân đều
đặn. Từ ngọn núi này đi ra, không thể dùng đường bộ. Xe cộ sẽ bị
Việt Cộng phục kích. Đời sống của những người tại đơn vị nhỏ này
lệ thuộc vào những chuyến tiếp tế. Từ lương thực đến súng đạn,
tất cả đều phải bằng máy bay... Anh lính này cưới vợ xong là đi
lính, mỗi năm về phép hai lần, mỗi lần 7 ngày. Anh ở Long An.
Những người như người thanh niên Miền Nam này sau đó bị gán cho
hai chữ ngụy quân. Không có gì vô lý hơn việc này. Nếu không có
chiến tranh mà người CS gây nên, anh ta đã có mười năm hạnh phúc
bên vợ con tại Long An. Anh ta có buôn bán gì với người Mỹ mà
nói đến chuyện bán nước? Nói đi nói lại chỉ để nói lên một sự
thực là đảng cộng sản phải chịu trách nhiêm về những đau đớn hy
sinh của thế hệ này, trong Nam cũng như ngoài Bắc.
Sau khi cuộc chiến chấm dứt một cách
tức tưởi dưới súng đạn mà Tầu Cộng cung cấp để người Việt Nam
chém giết nhau dẫn đến cuộc Bắc Thuộc hiện nay mà nguy cơ mất
nước lên cao độ hơn bất cứ thời đại nào, TXD còn phải chia sẻ
với những người thanh niên Miền Nam thuộc thế hệ anh 3 kiếp nạn
khủng khiếp nữa là Học Tập Cải Tạo, Vượt Biên và làm lại cuộc
đời nơi xứ người (Úc).
Học tập cải tạo của bọn Việt Cộng thực
ra chỉ là một loại ngục tù giống như Quần Đảo Goulag bên Nga mà
Soljenitsyne đã mô tả, trong đó bọn cai tù dùng những biện pháp
khủng bố về vật chất và tinh thần để triệt tiêu ý chí người tù,
sao cho đối với họ, chỉ còn miếng ăn là quan trọng. Không còn
chống đối, không còn ý chí, không còn danh dự, không còn nhân
phẩm. Thời gian ở tù dài hay ngắn, người đi cải tạo hoàn toàn
không biết. Trong đêm tối, họ dùng phương pháp chuyển trại, kẻ
đi không biết tại sao mình đi, kẻ ở lại không biết tại sao mình
phải ở lại, từ đó phát sinh ra những lời bàn bạc, phỏng đoán vu
vơ, chủ yếu gây sự hoang mang, và người tù sống trong một không
khí kinh hoàng, tuyệt vọng, đến nỗi nhiều người phải đi đến chỗ
tự tử, vì họ không chịu được sư tra tấn về tinh thần này. Nếu
không tự tử, thì sự thiếu dinh dưỡng, bệnh tật cũng tàn phá thân
thể người tù. Đó là chỉ tiêu, là mục đích của cái gọi là học tập
cải tạo. Hãy xem TXD tả lại quang cảnh trong trại học tấp:
Mỗi sáng, để chối bỏ tình trạng xuống
dốc của cơ thể, anh em ráng tập đi bộ quanh những căn nhà....
Nhìn họ, tôi biết họ đang lâm vào một chứng bệnh thuộc về thần
kinh tâm lý. Đó là chứng bệnh khước từ hiện trạng, chối bỏ sự
thật, tiếng Anh là Denial.
Và cái đêm kinh hoàng anh bị
chuyển trại:
Vài tháng sau, đến lượt tôi bị gọi
tên. Gói ghém vật dụng, lên xe Molotova. Khuya đến, đoàn xe
chuyển bánh. Xe không có mui, không có ghế. Cả người lẫn hành lý
chồng chất lên nhau. Xe chạy suốt đêm. Lệnh cai tù là tiêu tiểu
tại chỗ. BS Chi, thuộc bộ binh, vãi cứt đái ra quần. Gió bạt hơi
thối, lúc hướng này, lúc hướng khác.
Tất cả bài bản học tập cải tạo này,
thực ra Việt Cộng học từ bọn Nga, mà tác giả của nó là những
chuyên viên tâm lý lỗi lạc. Chúng ta đã nghe nói về những trại
giam vùng Tây Bá Lợi Á bên Nga, không phải chỉ là tàn bạo đâu,
có nghiên cứu, có bài bản khoa học hẳn hoi.
Nếu cuộc sống trong trại cải tạo đen
tối, thì cuộc sống bên ngoài cũng không hơn gì. Người dân Miền
Nam đã được hưởng tự do trong khoảng hai chục năm, dưới thời
Cộng Hòa I, rồi Cộng Hòa II, khác với người Miền Bắc, họ không
chịu nổi cái chế độ hà khắc là chế độ cộng sản, với sự quản trị
cái bao tử của người dân, và những đợt dánh tư sản, đổi tiền làm
họ khánh kiệt. Thời gian này là thời gian họ tổ chức những
chuyến tầu vượt biên, nhất quyết rời bỏ Việt Nam, là quê hương
họ, không luyến tiếc, chấp nhận những rủi ro, chết chìm tại biển
đông, hay chết vì hải tặc. Nếu cái cột đèn Miền Nam có chân,
chúng cũng bỏ đi. Mấy chục năm sau, hiện nay, năm 2018, ra ngoại
quốc vẫn là giấc mơ của người Việt Nam. Tại sao như vậy, nếu
không là việc lòng dân đã quá chán ghét cộng sản. Giấc mơ rời bỏ
Việt Nam dù có hấp dẫn đến thế nào chăng nữa cũng không phải là
dễ thực hiện. Phải có phương tiện, có tiền và nhất là phải có sự
may mắn nũa. Giỏi giang cách mấy cũng không thoát khỏi cái số
phận con người, cái phước, cái đức mà tổ tiên để lại cho con
cháu, Trần Xuân Dũng đã được hưởng cái phước đó và đã đem được
gia đình sang Úc. Xem những trang giấy anh viết về quãng đời này
của anh, không thể không có cảm nghĩ là anh này có phước quá.
Cuộc đời của anh coi như 99% tàn tạ, chỉ có 1% may mắn thoát,
vậy mà anh có được cái 1% đó, không hiểu tại sao.
Trần Văn Thủy, một đạo diễn Miền Bắc
viết trong tác phẩm của ông Nếu Đi Hết Biển đại khái:
Nếu đi hết biển qua Các Đại Dương,
Châu Lục, đi mãi, đi mãi, thì sau cùng cũng lại trở về với quê
mình, làng mình.
Ý của ông này là tình Quê Hương trong
một con người mãnh liệt và không gì có thể tiêu diệt được tình
cảm này. Trần Văn Thủy đã lầm. Người ta yêu quê hương nhưng khi
quê hương ấy nằm trong tay những kẻ trời không dung, đất không
tha như bọn Việt Cộng, thì thà Sống Chẳng Còn Quê như Trần Xuân
Dũng còn hơn.
Hãy nghe lời tâm sự của tác giả:
Lúc
nào tôi cũng khắc khoải về nước Việt Nam đã mất.
Và bài thơ này của thi sĩ:
Nghe
chó sủa khuya, thấy não nề
Nhắc đời đất
khách kéo lê thê.
Ta vì thảm họa Miền
Nam mất.
Sống chẳng còn quê, thác chẳng
về
Tôi đã đọc say mê liền một lèo trong
một đêm mùa đông năm 2018 tại nơi tôi ở là thành phố Montréal,
kho tuyết rơi, và ngoài trời giá lạnh, tập hồi ký của người bạn
đồng môn. Gấp cuốn sách lại, tôi trầm ngâm suy nghĩ. Ái nữ của
tác giả, cô Chim Khuyên viết trong trang cuối cuốn sách: Tôi coi
nước Úc là nhà, nhưng tôi biết rằng bố mẹ tôi lúc nào cũng vẫn
cảm thấy như ở ngoại quốc.
Tôi biết rằng cũng như tôi, Trần Xuân
Dũng lúc nào cũng vẫn thiết tha với Việt Nam, nhưng không về
Việt Nam nếu vẫn còn Việt Cộng.
Lời kết của bài viết này,
đã khá dài, là tôi xin nhắn các nhà đạo diễn điện ảnh Việt Nam,
trong và ngoài nước: Nếu các bạn muốn tìm một tác phẩm để thực
hiện một cuốn phim ngang hàng với Guerre et Paix, Autant en
emporte le Vent, Docteur Jivago, thì xin hãy đọc Sống Chẳng Còn
Quê của Bác sĩ Trần Xuân Dũng theo địa chỉ trên Internet:
http://txdung399.blogspot.com.
Trân trọng.
Trần Mộng Lâm
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Tôn Thất Sơn chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, April 15, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang