Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Trang Thi-Văn
Chủ đề: Thơ Bùi Giáng
Tác giả: Tạo Ân
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Xin
chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía
trước miên trường phía sau
Hai
câu thơ rất nổi tiếng trên của Bùi Giáng mở đầu bài “Chào Nguyên
Xuân”
trong tập thơ Mưa Nguồn xuất bản năm 1963.
Mấy chục năm
qua rồi mà hai câu lục bát trên vẫn là một bí ẩn; cũng như ngay
cả con người Bùi Giáng, xưa và nay, luôn là một bí ẩn dưới ánh
mặt trời, để rồi từ giai thoại biến thành huyền thoại với những
câu chuyện chọc phá thiên hạ theo kiểu Ba Giai Tú Xuất. Trong
lịch sử văn học Việt Nam trước và sau ông chắc không còn ai có
được cung cách viết và sống như ông. Ông rong chơi đây đó tối
ngày mà không hiểu tại sao có thể sản xuất ra vô vàn tác phẩm.
Người đời chỉ biết lắc đầu chịu thua và cho ông là thiên tài. Ông
thường lang bạt đầu đường xó chợ, bạ đâu ngủ đấy, xin gì ăn đó,
tự hủy cùng cực; vậy mà thơ vẫn cứ tuôn vô tận. Miễn cưỡng lắm
chúng ta có thể xếp Chiêu Lỳ Phạm Thái gần gần ông mà thôi, bởi
vì Phạm Thái chỉ mới say thôi chứ chưa điên.
Bùi Giáng tỉnh hay điên? Mà nếu điên
thì cũng không phải cái điên bình thường.
Cái điên của Bùi Giáng lung linh bao la trí tuệ, tràn ngập không
gian cảm ứng và hun hút vực sâu ngộ thức. Những ngoại ngữ Anh,
Đức, Pháp, Hán chả biết ông học ở đâu ra nhưng chuyển ngữ thần
sầu; viết tiểu luận triết học Tây phương; nhận định phê bình từ
Huyện Thanh Quan đến Nguyễn Du, rồi Tản Đà, Hồ Xuân Hương, Phan
Văn Trị, Tôn Thọ Tường. Có thời bỏ học đi chăn dê trong vùng núi
đồi Trung Việt. Có một thời gian làm giáo sư. Có lúc nổi hứng ông
lại bỏ tất cả, cầm cọ đòi làm họa sĩ. Nhưng tất cả những thứ đó
chỉ là trang sức cho một thi năng siêu huyền chưa từng có trong
văn đàn Việt Nam. Mai Thảo nói về ông như sau:
“Bùi Giáng chất ngất một trời chữ
nghĩa, Bùi Giáng trùng trùng một biển văn chương... Sự hình thành
một tác phẩm nơi Bùi Giáng cuối cùng vẫn còn là một bí ẩn hoàn
toàn trong cái vùn nụt, cái bất tuyệt thao thao, cái chớp mắt đã
là của nó... Bùi Giáng đã đem lại cuộc đời biết bao nhiêu châu
ngọc. Bằng tài thơ trác tuyệt. Bằng ngôn ngữ ảo diệu, không tiền
khoáng hậu. Có ông, thi ca mới đích thực có biển có trời. Từ ấy,
thi ca mới không cùng không tận.”
Bùi Giáng, có thể nói, tái phát minh
lục bát và sống chết với thể thơ lục bát. Nhiễm nặng Kiều, ông
cho là tất cả triết lý đều nằm trong truyện Kiều. Họ Bùi hay lấy
Kiều rồi nhào nặn, xào nấu theo gia vị của riêng mình. Có người
chê, cho là đạo thơ. Nhưng hãy gác lại chuyện đó. Dù khen hay
chê, ai cũng phải công nhận thơ ông vô tiền khoáng hậu. Chữ nghĩa
biến hóa như phù phép. Tâm hồn và cuộc đời ông là những mảnh lục
bát nổi trôi như nàng Kiều − héo hắt để tang mãn đời cho một Từ
Hải uất ức, oan khiên.
Tài hoa của ông là một hiện tượng về
ngộ thức ngôn ngữ. Cách xử dụng ngôn ngữ ra ngoài những quy ước.
Bỏ hết những ràng buộc giáo điều, Bùi Giáng xé rào đi hoang với
thuật ngữ riêng của ông. Đọc thơ ông cần có riêng một cuốn tự
diển Bùi ngữ. Thơ ông như chiếc thuyền nan xuôi dòng đang được
loay hoay, hoạt kê chèo chống bằng gã đười ươi lông xù nhe răng
cười nhân thế. Nhưng cuối cùng con đười ươi cà rỡn này hiên ngang
là trạng sư cho phái thơ thuần Việt:
“Chúng ta quen thói ngóng chạy theo
đuôi mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta
tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để thể
hội rằng lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo
nhất của năm châu bốn biển ba bảy sông hồ.”
(Thi Ca Tư tưởng).
Chỉ có ngông sĩ mới lộng ngôn được như
vây! Và cũng chỉ một mình ông nặng lòng với lục bát đến như thế!
Vì lẽ đó, đi tới đâu, ông rắc thi hoa
tới đó. Chúng ta hay gặp ở Bùi Giáng những câu “Kiều sắc” tự
vấn-đáp nghe ngô nghê dân dã mà xoáy vào tim óc, chạnh lòng, đau
đáu:
Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
(Chào Nguyên Xuân)
Cũng có khi nhẹ nhàng man mát lụa tơ,
lãng mạn vô ngần, có thể hiểu lầm là của Nguyễn Bính hay Hồ
Dzếnh:
Áo vàng xin dệt cho em.
Tơ vàng ai lựa sợi mềm tay đan.
Mai sau
để lại hoe vàng.
Cầm nghe có thịt da
nàng ở trong.
(Dệt Áo)
Nhưng cuối cùng chúng ta sẽ bị bắt buộc
trưc diện những câu nặc “Bùi phái”, không lầm vào đâu được. Đó là
những dấu hỏi lớn lao ở con đường rẽ đôi, ngã ba đường, đường thu
chia ngã, hay giữa đường. Người gặp người. Tôi gặp Tôi. Thân Xác
gặp Linh Hồn. Tương Lai choảng đụng Quá Khứ (Big Bang) ở Hiện
Tại. Và sau khoảnh khắc đó là định mệnh nổi trôi, tiếp tục cuộc
hành trình miên man vô định.
Xin
chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía
trước miên trường phía sau
(Chào Nguyên Xuân)
Hay:
Em về
mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên
màu ấy không?
Ta đi còn gửi đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù?
Những
thương nhớ lạnh bao giờ
Đường thu chia
ngả chân trời rộng thênh...
(Mai Sau Em Về)
Bùi Giáng với những câu như vậy thành
công ở chỗ tạo âm vang và gây ấn tượng
với người đọc. Người đọc bắt buộc phải dừng chân, lấy lại hơi
thở, lắng nghe tiếng hát hớp hồn của loài ngư nữ cổ Hy và, song
song đó, thưởng thức tranh họa trừu tượng bằng mầu đen huyền hoặc
của Van Gogh.
* * *
Có
người khen thì cũng có người chê. Trần Hữu Thục, rất khắt khe,
bảo:
“Nói
cho rõ ràng ra, thơ của Bùi Giáng dở. Trừ một số câu thơ hay –
chưa hẳn là rất hay, còn lại hầu hết thơ ông đều dở”, “Ta có thể
nói, cái dở trở thành tính cách của thơ ông”.
Thụy Khuê trong bài “Hiện
Tượng Bùi Giáng” kết luận rằng:
“Ở Bùi Giáng hình như không có sự
tự giới ấy. Cho nên biết bao lần người đọc tiếc, giá Bùi Giáng
đừng ham chơi, chịu khó dừng lại ở chỗ đáng dừng để những câu thơ
sáng giá như (...) khỏi bị lọt vào khu rừng hoang, ôm đồm những
lời thơ vội vàng, mọc lên như cỏ dại.”
Riêng tôi lại cho rằng những câu “dở”
là sự hiện hữu tương đương ắt phải có cho những câu “hay”, cũng
như “vật” và “phản vật” trong vật lý vũ trụ, hay âm dương nhị
nguyên của đạo. Thiếu cái này thì chẳng bao giờ có cái kia. Chúng
ta hay vội xét đoán “một thi sĩ thần thế ấy sao lại có những cái
dở tệ thế kia”. Chúng ta hãy nhìn vào cách làm thơ của ông trước
khi xét đoán thêm.
Mai Thảo kể rằng:
“Tôi hỏi xin ông những bài thơ mới
nhất. Ông gật. Tưởng lấy ở túi vải ra. Hoặc nói về lấy, hoặc nói
hôm sau. Tất cả đều không đúng. Ông hỏi mượn một cây bút, xin một
xấp giấy, một chai bia lớn nữa, đoạn ngồi xuống và trước sự kinh
ngạc cực điểm của chúng tôi, bắt đầu tại chỗ làm thơ (...) Lần
đầu tiên tôi thấy Bùi Giáng viết, thoăn thoắt, vùn vụt, nhanh
không thể tả. Như thơ không thể từ đầu, từ tim chảy xuống, xa
quá, lâu quá, mà ngay từ ngọn bút, từ đầu ngón thôi (...) Lần đó,
tôi đã thấy, đã hiểu tại sao Bùi Giáng, cứ cánh bướm rong chơi,
cứ phiêu bồng lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi.”
Cứ thế, Bùi Giáng làm thơ không cần đắn
đo, làm thẳng một lèo như viết thư pháp, hay dở đều lộ thiên cho
thiên hạ xem. Vì sao? Vì Bùi Giáng làm thơ không phải cho đại
chúng, trước hết là cho chính mình, như lời độc thoại trong đêm
vắng; với tính tình của Bùi Giáng, chắc ông không cần tri kỷ. Và
nếu nói như Thụy Khuê − một Bùi Giáng biết trang trọng gọt dũa
chỉ xòe ra thơ “hay” mà thôi − thì thật sự: Bùi Giáng mà chúng ta
đều biết đã chết từ ban sơ rồi!
* * *
Còn hai con mắt, ngó
người một con
Hồi
còn nhỏ, vào một buổi trưa nắng hè, lần đầu được mẹ mua cho cây
cà rem, vừa nuốt qua cổ, tôi cảm nhận được ngay sự mát lạnh, ngon
ngọt mà chẳng hiểu tại sao. Hai chữ “miên trường” tạo cho tôi cái
cảm giác cũng vậy, thấy hay mà không biết tại sao hay. Lớn lên,
muốn vạch ra bí ẩn, tôi cố tìm ra nguồn căn. Lục ra được hai chữ
“miên” trong cuốn Hán Việt Tự Điển Thiều Chửu có vẻ hợp với câu
văn. Miên (眠)có nghĩa là nhắm mắt, giấc ngủ; và (cũng) miên
(綿)nghĩa là ràng rịt. Sau khi bổ câu thơ làm hai, chẻ thêm lần
nữa thành bốn, tận dụng bộ não cỏn con, với mớ lý luận sơ đẳng,
đại khái tôi hiểu như thế này.
Theo nghĩa thứ nhất: mùa xuân phía
trước, giấc ngủ dài phía sau. (Bùi Giáng có lần nhắc lại “miên
trường” với nghĩa giấc ngủ dài [tìm Hy Lạp giữa Đông phương/em đi
vào giấc miên trường hư không]). Trong cái sát na của va chạm
(chào nhau) giữa hai thể lực, ngộ kiến nảy sinh ở mốc điểm, nhìn
ra quá khứ vị lai, hay sự tương phản của đối tượng. Ở đây “mùa
xuân/miên trường” là hai bất tương gần nhau.
Theo nghĩa thứ hai: mùa xuân phía
trước, tơ vò phía sau. Thời gian là chiều dài. Ngắt quãng ở đâu
đó làm hiện tại. Bên kia là chập chùng quá khứ. Bên này là trong
sáng tương lai. Đừng bìu ríu lớp dĩ vãng chằng chịt, hãy dấn thân
phía trước hiên ngang. Tới đây tôi rất hãnh diện về những khám
phá mới này, từ nay trở đi có thể khoe khoang và giải nghĩa cho
mọi người rằng tôi đã giải mã được hai câu bí ẩn hơn mấy chục
năm. Rất tiếc và cũng khốn thay! Tôi đồng thời cũng nhận ra rằng
hai chữ “miên trường” đã vơi đi nhiệm mầu! Lão Tử đã chẳng nói
“Đạo khả đạo phi thường đạo” đó sao? Phạm Công Thiện cũng có lần
nói bình thơ là phạm thượng (blasphemy). Và dĩ nhiên Bùi Giáng
quá biết về cái taboo lớn lao ấy:
“Thơ là
cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn gì được...”
(Thi Ca Tư Tưởng).
Chúng ta đừng động tới thơ, vốn mong
manh sương khói, bởi vì lẽ “đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm”.
Hãy để nguyên vị ngọt ngây dại của thơ như cây cà rem đầu mùa
giữa trưa nắng hè.
Có một bài thơ Bùi Giáng viết trên giấy
rác:
Trước khi về chín suối
Em xin gửi đá vàng
Của trăm năm buồn tủi
Về trở lại nhân gian.
Chắc hẳn ông cũng có ít nhiều trăn trở,
buồn vui nhân thế. Có lẽ ngay lúc này ông
rất tỉnh và cũng rất cô đơn (không có lấy một trang giấy đàng
hoàng để viết, và luôn luôn viết trong cô đơn). Sự cô đơn luôn là
một định mệnh ám ảnh theo đuổi ông mãi, nhất là trong tình yêu.
Ông hằng khao khát một mối tình (“Chắp tay tôi lạy Ông Trời/Tìm
người yêu giúp dùm tôi một lần”). Như trong câu truyện “Cô Bé Bán
Diêm” của Hans Christian Andersen, ông đốt hết que diêm này tới
que diêm khác để vơi đi nỗi buồn; cho tới một ngày không còn que
diêm nào nữa, ông đành bỏ lại “miên trường” phía sau! Chắc hẳn
ông đã nhìn thấy “Mùa Xuân” phía trước!
Tạo Ân
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những bài liên hệ
Tản mạn về bài viết - Người thơ rong chơi cuối chân trời
Trung tâm lưu trữ những buổi lễ Mừng Thánh Tổ SĐND/QLVNCH
|
Hình nền: Vườn xuân. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by utl chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, April 12, 2017
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang