Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Sở Phòng Vệ Duyên Hải/QLVNCH - BIỆT HẢI
LỊCH SỬ QLVNCH
Chủ đề: Ghi nhớ những Anh Hùng BH QLVNCH
Tác giả: Nhà văn Quân Đội Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Qua
giới thiệu của người bạn tù, nguyên là một sĩ quan thâm niên thuộc
Nha Kỹ Thuật, tôi biết được Biệt Hải Nguyễn Châu. Người từng được
tuyển chọn là chiến sĩ xuất sắc của Sở Phòng Vệ Duyên Hải (trực
thuộc Nha Kỹ Thuật BTTM/QLVNCH).
Chỉ nghe qua đôi điều về anh cũng đủ làm cho tôi ngưỡng mộ và tò mò
muốn được gặp anh, để được nghe anh kể về quãng đời chiến đấu trong
âm thầm, nhưng rất hào hùng của những chiến sĩ Biệt Hải. Một lực
lượng ít người biết đến, mặc dù họ đã từng bao lần vào sinh ra tử,
mỗi lần ra đi đều không hẹn [ngày] trở về. Họ chiến đấu can trường,
anh dũng không thua kém bất cứ một binh chủng thiện chiến nào của
QLVNCH và kể cả trên thế giới, cho dù với những cấp bậc rất khiêm
nhường.
Nguyễn Châu,
sinh ngày 02-10-1933 tại làng Nhượng Bạn, huyện
Cẩm Xuyên,
tỉnh Hà Tĩnh. Theo ông bà cha mẹ vào Nam, đến định cư tại Đà Nẵng
vào đầu tháng 10 năm 1949.
Năm 1962, Nguyễn Châu tình nguyện
vào lực lượng Biệt Hải với vai trò một Dân Sự Chiến Đấu. Tháng 6 năm
1970, có lệnh giải tán các toán DSCĐ, nên anh xin được cải tuyển vào
Hải Quân. Sau hơn tám năm chiến đấu trong một lực lượng thiện chiến,
đầy hiểm nguy bất trắc, với nhiều công trạng, nhưng khi cải tuyển
sang Hải Quân không được một ân huệ đặc biệt nào, anh vẫn vui vẻ và
hãnh diện nhận lấy cấp bậc thấp nhất: Thủy Thủ Tập Sự (Binh Nhì), và
tiếp tục phục vụ trong Lực Lượng Biệt Hải, thuộc Sở Phòng Vệ Duyên
Hải trực thuộc Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu/QLVNCH (BTTM). Chỉ
trong vòng ba năm, anh đã được Đô Đốc Tư Lệnh HQ đặc cách thăng cấp
tại mặt trận liên tục 3 lần lên Hạ sĩ I, cùng tưởng thưởng 4 Anh
Dũng Bội Tinh và 1 Chiến Thương Bội Tinh. Với cấp bậc quá khiêm
nhường đó, nhưng Biệt Hải Nguyễn Châu đã làm cho kẻ thù khiếp sợ,
mọi người – từ các cấp chỉ huy Việt, Mỹ đến đồng đội – phải kính nể,
với những chiến tích lẫy lừng, mà chỉ có những người dám sẵn sàng
đánh đổi tính mạng của mình mới có thể giành lấy được.
Từ lúc
còn là một Dân Sự Chiến Đấu, anh đã nhiều lần xâm nhập miền Bắc, từ
Hải Phòng, Thanh Hóa, đến Đồng Hới, Đông Hà, thám sát tình hình, bắt
sống cán bộ CS mang về miền Nam cho Cơ Quan Tình Báo khai thác, phá
hủy nhiều nhà máy, cầu cống, tiêu diệt một số đồn bót công an, tàu
thuyền của CSBV. Anh cũng đã tham dự các cuộc hành quân bí mật để
giải cứu những phi công Hoa Kỳ bị bắn rơi hoặc những quân nhân Hoa
Kỳ bị bắt làm tù binh bên kia vĩ tuyến 17 hay trong các vùng địch
chiếm. Đặc biệt trong trận hải chiến với Trung Cộng tại quần đảo
Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974, chính anh đã điều động toán Biệt Hải
đổ bộ đầu tiên lên các đảo Cam Tuyền và Quang Hòa, cắm lá cờ Tổ
Quốc, sẵn sàng tử chiến với quân thù. Với những thành tích phi
thường đó, ngoài những huy chương, tưởng thưởng và đặc cách thăng
cấp tại mặt trận của Quân Lực, Chính phủ VNCH (đặc biệt đã được đích
thân Thủ Tướng trao gắn Hải Dũng Bội Tinh vào ngày 24-4-1974), anh
Nguyễn Châu đã được Chính Phủ và Quân Đội Hoa Kỳ ân thưởng:
–
1 huy chương của Bộ Trưởng Hải Quân Hoa Kỳ ngày 07-02-1966
–
1 giấy ban khen của Chỉ Huy Trưởng Biệt Đội Cố Vấn Hải Quân Hoa Kỳ
tại Thái Bình Dương ngày 29-9-1969
– đặc cách theo học khóa
người nhái tàu ngầm tại Subic Bay vào tháng 8/1972
– huy
chương cao quý của Tổng Thống Hoa Kỳ (Presdidental Unit Citation –
P.U.C) ngày 20-01-2006 (đặc biệt được tưởng thưởng sau hơn 10 năm
định cư tại Hoa Kỳ)
Trong Tưởng Thưởng Lục ngày
29-9-69 dành cho BH Nguyễn Châu, vị Chỉ Huy Trưởng Biệt Đội Cố Vấn
Hoa Kỳ Thái Bình Dương đã ghi như sau:
(Your
skillful execution of missions assigned in this erea serves as an
example of bravery and devotion to duty that speaks highly of your
personal conduct. In areas long denied Free Word Force you bravely
ventured forth and inflicted grave casualties on the enemy. Only
through your superior skill in these military operations were you
able to surpass previous attempts made by others penetrate this
area...
You have carried the flag and name of the Coastal
Security Service to the enemy’s doorstep and there you implanted it
with honor. You have brought honor and respect to your organization
and you country. Your heroic actions and dedication to duty will
long be remembered by the military organizations that you assisted
in the area and will serve as an example of success in their future
efforts...)
Mặt sau Tưởng Thưởng Lục được
dịch ra Việt Ngữ:
“Cách
thức đảm trách công việc tài tình trong các chuyến công tác tại vùng
này và sự hoạt động siêng năng trong công vụ của bạn là tấm gương
quả cảm, nói lên tinh thần trách nhiệm cao cả của bạn. Trong những
vùng mà từ lâu các lực lượng đồng minh vắng bóng, bạn đã anh dũng
đột nhập và gây cho lực lượng địch tổn thất nặng nề. Chỉ có tài năng
xuất chúng của bạn mới có thể vượt qua những trở lực mà các đơn vị
khác đã vấp phải để xâm nhập vùng này...
Bạn đã mang màu cờ
Sở Phòng Vệ Duyên Hải đến ngưỡng cửa địch và ở đó bạn đã cắm lên một
cách vinh dự. Bạn đã đem lại vinh quang cho Đơn Vị và Tổ Quốc của
bạn. Những hành động can đảm và sự tận tụy công vụ của bạn sẽ khiến
cho các tổ chức quân sự mà bạn hằng trợ giúp luôn luôn tưởng nhớ và
sẽ là tấm gương cho họ noi theo...”
Và chỉ trong
4 năm, sau ngày được cải tuyển để chính thức trở thành một người
lính Hải quân, anh Nguyễn Châu đã được toàn thể quân nhân các cấp
tuyển chọn là Chiến Sĩ Xuất Sắc nhất của Sở Phòng Vệ Duyên Hải. Một
số thành tích của Nguyễn Châu, được HQ Đại Tá Nguyễn Viết
Tân, Chỉ Huy Trưởng Sở Phòng Vệ Duyên Hải tường trình lên Đề Đốc Tư
Lệnh Hải Quân vào ngày 07-05-1974 để anh được tuyển chọn là chiến sĩ
xuất sắc của đơn vị đặc biệt này trong năm 1974:
“–
Trong cuộc hành quân Bạch Đằng 3/73 do Sở PVDH tổ chức. Với quân số
chỉ 5 người do đương sự làm Tổ Trưởng. Đương sự đã gan dạ khai hỏa
vào trung đội tiền phong của một Tiểu Đoàn Đặc Công VC di chuyển qua
vị trí của đương sự. Kết quả hạ hơn 30 Cộng quân, tịch thu nhiều vũ
khí và quân dụng, đồng thời bảo toàn lực lượng 100%.
- Trong
cuộc hành quân Biệt Hải tại Cửa Việt (tọa độ YD-266634), đương sự đã
xâm nhập vào vùng địch, hăng say quyết chiến với một lực lượng địch
động đảo, giết chết 1 Cộng quân, tịch thu 5 lựu đạn, 3 thanh TNT/TC,
phá hủy 100kg chất nổ. Đồng thời đương sự đã hướng dẫn phi pháo oanh
kích chính xác, gây thiệt hại nặng nề cho địch.
– Trong cuộc
hành quân tại Điện Bàn, Quảng Nam ngày 19-09-1971, đương sự đã điều
động đồng đội bắt sống 10 cán bộ Cộng sản, tịch thu một số tài liệu
quan trọng.
– Trong cuộc hành quân Biệt Hải tại Cà Mau, từ
06-11 đến 09-11-1971, khi đến mật khu địch, đương sự đã chọc thủng
phòng tuyến cuối cùng, chế ngự hoàn toàn hỏa lực của địch và tiên
phong tiến chiếm mục tiêu, hạ 7 VC tại trận, bắt sống 1 tù binh và
thu nhiều tin tức quan trọng.
– Trong cuộc hành quân xâm nhập
mật khu VC tại U Minh Hạ (WQ-371757) ngày 11-02-72, đương sự là tiền
sát viên hướng dẫn đơn vị vào khu an toàn VC, chính đương sự gan dạ
một mình lội ra giữa lòng sông đột kích 01 ghe giết 01 VC tại chỗ.
– Trong cuộc hành quân Bạch Đàng 3/73 do Sở PVDH tổ chức khai
diễn lúc 23:15 giờ ngày 09-5-1973 tại Ấp Thủy Tú xã Hòa Lạc quận Hòa
Vang tỉnh Quảng Nam. Toán công tác Biệt Hải do anh làm phó trưởng
toán đã chạm súng ác liệt với 01 Tiểu Đoàn Đặc Công CS. Tổ phục kích
“khóa đầu” do anh chỉ huy đã nổ súng vào đội tiền phong địch, dồn
địch vào ổ phục kích chính của Toán Biệt Hải. Kết quả hạ sát 30 Cộng
quân tại chỗ, tịch thu 09 K-54, 01 WZ-63, 02 AK-59, 20 lựu đạn và 95
bao gạo 95kg, cùng nhiều tài liệu quan trọng.
– Trong cuộc
hành quân Vì Dân 74 ngày 16-01-74 tại Hoàng Sa do BTL/HQ tổ chức,
Toán Biệt Hải gồm 24 người do anh làm phó trưởng toán. Ngày
17-01-74, Toán Biệt Hải đầu tiên đổ bộ tái chiếm đảo Cam Tuyền
(Robert), chính đương sự là người tiên phong xung kích lên đảo và
tịch thu lá cờ Trung Cộng cùng bảng ghi chủ quyền của họ. Hành động
quyết liệt và anh dũng của anh cùng đồng đội khiến lực lượng Trung
Cộng trên 2 Tiếp Tế Hạm không dám phản ứng, phải rút lui. Ngày
19-01-74 Toán Biệt Hải được lệnh tiến chiếm đảo Quang Hòa (Duncan),
nơi có doanh trại và quân Trung Cộng phòng thủ chặt chẽ, đương sự đã
tiến lên lập đầu cầu cho đồng đội tiến vào đảo, và cũng chính đương
sự dựng lá quốc kỳ VNCH mà anh đã thủ sẵn trong người. Trong lúc
địch quân dàn lực lượng bao vây đơn vị nhỏ bé của anh, đương sự luôn
ở tuyến đầu, quyết liệt không cho địch tiến chiếm các vị trí của ta.
Chính khí thế hào hùng của anh đã giúp đồng đội phấn khởi làm cho
quân Trung Cộng không dám dùng quân số đông đảo của họ tràn ngập
tuyến kháng cự của ta.”
Với thành tích này, đương
sự đã được chính Thủ Tướng Chính Phủ trao gắn Hải Dũng Bội Tinh với
Mỏ Neo Đồng vào ngày 24-4-1974.
Nhớ lại trận đánh lịch sử tại
Quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1/1974, anh Châu tâm sự:
Lúc ấy
tôi đang nghỉ phép. Vào một buổi sáng đẹp trời đang ngồi sau nhà thì
nhận được lệnh phải cấp tốc trở về trình diện để đi công tác. Kinh
nghiệm trước đây cho tôi biết, mỗi lần được gọi khẩn cấp như thế này
thường có công tác hết sức đặc biệt, khó khăn. Chẳng hạn như chuyến
đi giải cứu hai phi công Hoa Kỳ bị bắn rơi tại sông Cam Lộ, Đông Hà,
Quảng Trị vào tháng 4 năm 1972 trong Mùa Hè Đỏ Lửa. Lúc ấy toán của
tôi chỉ có 5 người, nhưng đã phải len lỏi qua mặt mấy Sư Đoàn Bắc
Việt, đi vào địa điểm công tác để cứu được hai phi công này mang ra
an toàn, cho mãi đến bây giờ, nghĩ lại thấy còn hú vía. Sau khi nhận
lệnh, lòng tôi cứ thấp thỏm, không biết chuyện gì đã xảy ra. Tôi vội
thay quần áo, hôn phớt các con rồi từ giã bà xã lặng lẽ ra xe.
Khi vào đến trại mới biết anh em trong toán chuẩn bị súng đạn
xuống tàu để ra công tác tại Hoàng Sa. Chuyến đi này tộng cộng có 24
Biệt Hải. Tôi làm toán phó kiêm tiền sát. Tất cả đều trang bị toàn
súng AK-47 của CS. Ngoài ra mỗi người còn được phép mang thêm mấy
khẩu M-72. Vì tôi không có mặt trong lúc toán nhận lệnh đi Hoàng Sa,
do đó trước khi chuẩn bị lên xe, tôi được CHT Biệt Hải, Thiếu Tá Hồ
Xuân T, và Trưởng Toán Nguyễn N cho biết sơ qua về tình hình trên
đảo, và nhiệm vụ của toán Biệt Hải là đổ bộ lên đảo để lấy lại chủ
quyền và kiểm soát các vị trí trên đảo, nơi đang có những đơn vị Hải
Quân Trung Cộng (TC) chiếm giữ bất hợp pháp.
Chiếc Khu Trục
Hạm HQ-4 Trần Khánh Dư dưới quyền Hạm Trưởng Vũ Hữu San, phụ trách
chở toán chúng tôi, được lệnh rời bến tàu Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên
Hải vào sáng hôm ấy. Đến xế chiều thì vị trí của tàu không còn cách
xa hải đảo Hoàng Sa là bao. Nghĩa là chiếc HQ-4 đang nằm trong phạm
vi của nhóm đảo Cam Tuyền và Quang Hòa. Vào buổi chiều cùng ngày,
17-01-74, Khu Trục Hạm HQ-4 đã bắt gặp 2 giang thuyền của HQ Trung
Cộng, giả dạng làm các ghe thuyền đánh cá. Trên đài chỉ huy, Hạm
Trưởng ra lệnh cho tàu chạy đến gần để kiểm soát, trong khi toán
Biệt Hải cùng một số thủy thủ đứng trên thành tàu chăm chú theo dõi,
đều nhận thấy 2 giang thuyền Trung Cộng có nhiều điểm đáng nghi ngờ.
Ngay lúc ấy, đài chỉ huy trên HQ-4 phóng loa kêu gọi 2 giang thuyền
TC ngừng lại, nhưng bọn họ vẫn phớt lờ. Anh em Biệt Hải chúng tôi
lúc ấy rất muốn được cấp trên cho nhảy xuống để lục soát các giang
thuyền này, tương tự như những chuyến Loky soát ghe bắt người tại
Vịnh Bắc Việt trước đây.
Lúc này, chiếc HQ-4 và một giang
thuyền của TC đều đã chạy chậm lại, khoảng cách không quá một mét.
Tuy nhiên, lệnh của Hạm Trưởng không cho chúng tôi nhảy xuống tàu TC
lục soát. Bất ngờ, một con sóng lớn ập đến khiến hai tàu húc vào
nhau khá mạnh. Tàu của TC thấp hơn nên lan can tàu của chúng bị hư
hại khá nặng. Do đó, bọn thủy thủ TC nổi nóng, một số xăn tay áo,
một số cởi hẳn áo ra vất xuống sàn tàu. Ra dấu thách thức thủy thủ
và toán Biệt Hải chúng tôi nhảy xuống đánh tay đôi. Đứng trên tàu,
toán Biệt Hải chúng tôi thấy vậy liền cởi áo và bảo đám thủy thủ TC
ở dưới trèo lên tàu nếu chúng muốn đọ sức. Đây là màn khẩu chiến đầu
tiên trong buổi chiều, lần đầu hai bên gặp nhau.
Hôm sau,
ngày 18-01-74, lúc xế trưa, toán Biệt Hải gồm 24 người, có cả Thiếu
tá Chỉ Huy Trưởng Biệt Hải đi theo. Tất cả trang bị súng đạn đầy đủ,
nhận lệnh xuống 3 chiếc hobo thẳng hướng chạy vào đổ bộ lên đảo Cam
Tuyền (Robert). Sau khi lên đảo, đi lục soát một vòng không thấy có
quân TC trú đóng, toán Biệt Hải khám phá một lá cờ TC đã cũ và một
tấm bảng (mạo nhận chủ quyền) viết bằng chữ Hán, nét mực còn mới
toanh, cắm trên đảo trước khi toán Biêt Hải đổ bộ lên. Ngoài ra
không có dấu vết gì khác.
Sau khi CHT/BH báo cáo cho Hạm
Trưởng ngoài tàu biết, chúng tôi được lệnh trở lại tàu, và một toán
HQ được lệnh đổ bộ vào để canh giữ đảo. Chiếc HQ-4 nhận lệnh tiếp
tục chạy sang đảo Quang Hòa (Duncan). Suốt đêm hôm ấy, trên tàu đã
cho mở những bản nhạc hùng ca, toàn lời hay ý đẹp, như để nhắc nhở
những người lính Hải Quân VNCH và Biệt Hải chúng tôi phải hết sức
gìn giữ lãnh hải và hải đảo Hoàng Sa do tiền nhân để lại, dù có phải
hy sinh tính mạng. Những bản nhạc càng làm chúng tôi nức lòng để sẵn
sàng chiến đấu, hy sinh.
Sáng sớm ngày 19-01-74, lúc 5 giờ
40, toán Biệt Hải chúng tôi nhận lệnh đổ bộ lên đảo Quang Hòa
(Duncan). Toán đã vào bờ, nhưng trời còn tối, nên tất cả nhận lệnh
nằm lại chờ trời sáng. Bọn lính gác Trung Cộng có lẽ không ngờ toán
Biệt Hải đổ bộ ban đêm nên không để ý và hay biết gì cả. Trước khi
xuống thuyền vào đảo, chúng tôi được cấp trên cho biết trên đảo đang
có quân TC trú đóng. Thừa lúc trời còn tối, tôi liền dẫn vài anh em
đi một vòng lục soát trong phạm vi của toán, phòng khi đụng trận sẽ
dễ dàng bảo vệ nhau hơn. Lúc 7 giờ 30 sáng, khi mặt trời từ hướng
đông ló dạng, trong nhiệm vụ tiền sát, tôi đi đầu, mon men dò dẫm,
phát giác một giao thông hào do quân TC đào sẵn. Tôi tiếp tục dẫn
toán đi lên, nhưng vừa đi khoảng 60m thì gặp quân TC đang đứng chặn
đầu. Hai bên đều thấy mặt nhau nhưng chưa bên nào nổ súng. Phía
trước mặt, chúng tôi nhận diện được quân số của TC khá đông, tất cả
đều nằm dưới các hầm phòng thủ trong tư thế sẵn sàng tác chiến, chăm
chú nhìn chúng tôi với vẻ nghi ngờ, không biết chúng tôi thuộc phe
nào. Vì cách trang phục của Biệt Hải chúng tôi giống bộ đội du kích
Bắc Việt, kể cả vũ khí trang bị.
Khi khoảng cách hai bên cách
nhau không tới 4m, thì một số cấp chỉ huy TC rời hầm phòng thủ, vừa
đi ra vừa nói tiếng Hoa và ra dấu đuổi toán Biệt Hải chúng tôi rời
khỏi phạm vi hải đảo. Ý chúng muốn nói đảo Quang Hòa thuộc chủ quyền
của Trung Cộng. Ngược lại toán Biệt Hải chúng tôi cũng ra dấu đáp
trả, ý nói đảo này thuộc chủ quyền VNCH, quân TC phải rời khỏi đảo.
Một bên tiếng Tàu, một bên tiếng Việt, lúc đầu chẳng ai hiểu ai. Có
lúc lời qua tiếng lại rất hăng, hai bên đã quơ tay đụng nhau. Rất
may, trong toán Biệt Hải chúng tôi có anh Trần A Lộc, người Việt gốc
Hoa, hiểu và nói sành sõi tiếng Hoa, đứng ra thông dịch. Hai bên
khẩu chiến gần một tiếng đồng hồ. Tình thế mỗi lúc một căng thẳng,
nhất là khi quân TC biết chúng tôi, lực lượng đang đứng trước mặt
chúng thuộc VNCH, quyết tâm giành lại chủ quyền trên đảo. Một số
lính TC liền có thái độ rất hung hăng, nhưng không dám nổ súng vì có
lẽ không biết rõ lực lượng chúng tôi, có còn ở [nơi] nào khác chung
quanh đây không. Cũng may, nếu chạm súng trong tình huống này, sự
thiệt hại của Biệt Hải chắc chắn không phải là nhỏ. Thấy vậy, trưởng
toán liền hội ý với vị CHT/BH, và ông đã gọi ra tàu báo cáo cho Hạm
Trưởng để trình bày sự việc. Chúng tôi được lệnh rút lui. Trước khi
đi tôi đã tìm một cành cây khô buộc lá quốc kỳ VNCH vào rồi cắm
xuống trước mặt chúng.
Khi xuống thuyền đi ra được nửa đường,
chúng tôi gặp toán Hải Kích của Trung úy Đơn từ ngoài đi vào. Chúng
tôi liền liên lạc cho Trung úy Đơn biết rõ tình hình quân TC trên
đảo. Ngay khi toán Biệt Hải lên tàu HQ-4 thì bỗng nghe tin toán Hải
Kích của Trung úy Đơn có 2 người bị tử thương ở phía ngoài bờ biển.
Biết tình thế sẽ đánh nhau, tôi đề nghị CHT/BH lên đài chỉ huy trình
với Hạm Trưởng. Khi nào sẵn sàng khai hỏa, thì cho HQ-4 chạy sát gần
tàu của TC, khoảng cách từ 50 đến 100m, để toán Biệt Hải chúng tôi
dùng M-72 bất ngờ triệt hạ các tàu của chúng. Theo ý tôi đây là cơ
hội bằng vàng để tiêu diệt bọn lính TC, nhưng cuối cùng Hạm Trưởng
không chấp thuận. Ông cho biết, khi nào có hải chiến, thì sẽ dùng
súng lớn và nên chạy cách xa tàu TC khoảng 300m.
Đến 10 giờ
sáng thì lệnh khai hỏa bắt đầu. Khẩu đại bác 125ly của HQ-4 ở giữa
boong, gần đầu mũi tàu chỉ bắn được 9, 10 quả thì bị trở ngại tác
xạ! Ngay lúc ấy tôi bị một mảnh đạn văng trúng đầu, máu chảy xuống
đầy hai mí mắt. Tôi vội đứng nấp sau khẩu súng lớn đã bị hư hại, lấy
khăn lau sạch vết thương, tìm y tá nhờ băng bó, rồi trở lại vị trí
các ổ súng lớn trợ giúp các pháo thủ. Trong lúc giao chiến, tôi nhìn
thấy Biệt Hải Nguyễn Văn Vượng bị thương khá nặng, được anh em dìu
vào phía trong. Cuộc hải chiến tiếp tục cho mãi hơn 30 phút sau mới
chấm dứt. Chiến hạm HQ-4 được lệnh rời khỏi vùng, quay mũi hướng Nam
đi về Đà Nẵng. Khi tàu đã đi khá xa quần đảo Hoàng sa, thì bỗng
nhiên không hiểu vì lý do gì, HQ-4 được lệnh quay trở lại vùng hải
chiến sáng nay. Lúc ấy vào khoảng 1 giờ trưa.
Nghe tin này,
một số anh em bị thương nặng tỏ vẻ xúc động, nhưng những anh em
khác, tuy bị thương nhẹ, nhưng còn khả năng tác chiến, rất hăng say
sẵn sàng vào vị trí tác chiến. Toán Biệt Hải bây giờ đặt dưới quyền
Hạm Trưởng, đưa bổ sung vào các chỗ khiếm khuyết tùy theo khả năng.
Phần tôi, tuy bị thương, nhưng vẫn được giao sử dụng một cây đại
liên 50. Sau khi nhận lệnh, chiếc HQ-4 quay đầu trở lại theo hướng
Đông Bắc, trực chỉ quần đảo Hoàng Sa để tái nhập cuộc. Tuy nhiên sau
hơn một giờ hải hành, HQ-4 lại được lệnh quay trở lại Đà Nẵng một
lần nữa. Toán Biệt Hải chúng tôi nghe loáng thoáng, lý do có máy bay
MIG và tàu chiến Trung Cộng trên đường đến trợ chiến quân đội của
chúng tại Hoàng Sa. Mãi đến sau này, khi đã định cư tại Hoa Kỳ,
chúng tôi mới biết rõ nội vụ: Lý do khiến HQ-4 phải đột ngột quay
lại Đà Nẵng: “Tùy viên Quân Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn (DAO) cho biết
radar của Đệ Thất Hạm Đội ghi nhận, một số phóng lôi hạm (guided
missile frigate) và chiến đấu cơ MIG của Trung Cộng từ Hải Nam đang
tiến về Hoàng Sa. BTL/Hải Quân VNCH yêu cầu Đệ Thất Hạm Đội trợ
giúp, nhưng không thành công. Các chiến hạm của VNCH được lệnh rút
bỏ quần đảo Hoàng Sa (Kiem Do and Julie Kane, Countarpart,
AVietnamese Neval Officer’s War – Đất Mẹ)
Khi HQ-4 trên đường
xuôi nam thì Biệt Hải Nguyễn Văn Vượng từ trần, vì vết thương khá
nặng. Anh ra đi để lại người vợ mới cưới và đứa con nhỏ.
Cuộc
hải chiến hào hùng của các chiến sĩ Hải Quân, các toán Hải Kích
Người Nhái và toán Biệt Hải thuộc Sở Phòng Vệ Duyên Hải, Nha Kỹ
Thuật, tại quần đảo Hoàng Sa vào ngày 19-0174 đã nói lên ý chí và sự
quyết tâm của người lính VNCH, quyết chiến đấu để giữ gìn lãnh hải,
hải đảo do Tiền Nhân để lại, không bao giờ sợ hãi trước giặc ngoại
xâm Trung Cộng.
Biệt Hải
Nguyễn Trâm, một đồng đội đã kể về anh Nguyễn Châu:
Nguyễn Châu được chính thức gia nhập Lực Lượng Biệt Hải giữa năm
1962, phục vụ dưới danh nghĩa của một nhân viên dân sự vào tình
nguyện công tác, và cũng là chiến sĩ Biệt Hải cuối cùng bất đắc dĩ
buộc rời khỏi toán mà không cần chứng chỉ giải ngũ sau ngày oan
nghiệt tháng 4. Mặc dù cuộc chiến của hai miền Nam-Bắc trên quê
hương Việt Nam đã sang trang từ lâu, nhưng trong ký ức của anh vẫn
không thể nào quên những giây phút hào hùng nhưng cũng nhiều bi lệ
trước đây, mà trong suốt thời gian gần 13 năm anh đã phục vụ dưới
màu cờ sắc áo của Lực Lượng Biệt Hải.
Nhớ lại những ngày đầu
của thập niên 60, anh cùng bạn bè đồng đội nhiều lần được gởi ra
thực hiện các công tác tại miền Bắc, đặc biệt chuyến đột kích mở tay
đầu tiên: ban đêm xâm nhập vào tiêu diệt một đồn công an biên phòng
tại Cửa Khẩu, Hà Tĩnh, chỉ cách làng Nhượng Bạn, nơi chôn nhau cắt
rốn, đã từng một thời nuôi anh lớn khôn không mấy bao xa trước khi
anh theo gia đình di cư vào Nam. Thời tiết đêm hôm ấy thật tĩnh lặng
nên hết sức thuận tiện, đã giúp tinh thần mọi người thêm phấn chấn,
lẹ làng di chuyển, lúc ẩn lúc hiện, như những bóng ma dưới ánh trăng
mờ. Trên vai xạ thủ, những khẩu đại bác 75ly không giật nặng trĩu,
cùng số đạn pháo mang theo đủ để tập kích mục tiêu. Giờ này, nơi
miền Nam tự do, bạn bè, người thân quen và vợ con anh, tất cả vẫn
thanh thản hồn nhiên đi vào giấc ngủ, đâu có biết ở phương này hiện
giờ anh cùng đồng đội đang tận lực tranh đua cùng thời gian để được
sống còn, trên vùng đất nhiều rủi ro cho định mệnh.
Toán đến
được mục tiêu vội vàng tìm chỗ ẩn núp, đồng thời quan sát địa thế
đặt các khẩu 75ly không giật hướng vào vị trí đồn Công An Cộng Sản.
Tất cả cùng khai hỏa theo lệnh trưởng toán. Trong khoảnh khắc, tất
cả các cứ điểm quanh đồn địch bốc cháy, địch quân hoàn toàn bị tiêu
diệt.
Giữa tháng 6 năm 1964, toán của anh được lệnh phối họp
cùng một toán bạn, tiếp tục thi hành chuyến công tác mới. Với kinh
nghiệm và sự thành công của chuyến trước, đã giúp anh và đồng đội
tăng niềm tin, nhưng những ưu tư lo lắng vẫn cứ chập chờn và ám ảnh
mọi người. Suốt gần hai tuần, anh em học cách xâm nhập bơi vào bờ
ban đêm, đội hình di chuyển, tập tác xạ đại bác 75ly không giật, tập
điều chỉnh tọa độ nhắm bắn các mục tiêu giả định trong Nam, v.v. để
sẵn sàng cho mục tiêu chính tại miền Bắc trong những ngày sắp tới.
Vì thế đã khiến anh cùng mọi người linh cảm chuyến xâm nhập này chắc
đầy cam go nguy hiểm, “lành ít dữ nhiều”. Mọi gian truân thử thách
đó như đang chờ đón đâu đây... Ngày cuối, trước giờ khởi hành, tất
cả được cấp chỉ huy Việt & Mỹ đích thân xuống thuyết trình lần chót,
đồng thời cho biết rõ mục tiêu quan trọng mà toán xâm nhập phải thực
hiện đêm nay: triệt hạ nhà máy nước Bầu Tró, Đồng Hới theo kế hoạch
của Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Tiếp đến, trưởng toán cặn kẽ hướng dẫn
trên mặt sa bàn cùng một số không ảnh U-2 và phân nhiệm cho từng cá
nhân. Kết quả lần này cũng tương tự như chuyến trước đây. Với yếu tố
bất ngờ và chính xác đã giúp toán hoàn thành nhiệm vụ. Sau khi những
trái đạn 75ly thoát ra khỏi nòng, tất cả đều tìm đến xoáy nổ vào các
mục tiêu đã định. Những cơ sở trong khu vực nhà máy nước Bầu Tró
phút chốc hoàn toàn sụp đổ, đã làm mọi người hết sức phấn khởi cùng
hướng nhìn về phía mục tiêu quan sát, trông thấy ngọn lửa mỗi lúc
một bốc cao sáng rực cả một góc trời, mặc dù hiểm nguy đợi chờ trước
mặt, bởi lúc này con đường về Nam càng cảm thấy trở nên xa thẳm mịt
mờ.
Một điều không may đã xảy ra: Lúc toán hành động đang
trên đường di chuyển, thì bất ngờ được toán ở lại cất giấu và canh
giữ thuyền (hobo) ngoài bờ biển (làm điểm hẹn cuối cùng để chuyên
chở anh em ra chiến đỉnh PFT đậu chờ ngoài khơi, sau khi hoàn thành
nhiệm vụ) cho biết là có khả nghi bị địch phát giác. Cả toán ngừng
lại giây lát, nhưng cuối cùng trưởng toán quyết định hết sức táo
bạo: vẫn phải tiếp tục di chuyển vì mục tiêu đã gần kề. Sau khi hoàn
toàn dứt điểm mục tiêu, toán trên đường rút ra, không may bị đám dân
quân tuần tiễu phát hiện, chặn đường. Hai bên đồng loạt khai hỏa.
Biệt Hải Nguyễn Bảy (tự Nguyễn Học) người em họ của Châu, bị trúng
đạn tử thương tại chỗ, và Biệt Hải Vũ Văn Sắc bị chúng bắt sống sau
đó. Trong giờ phút thập phần nguy hiểm, mọi người phân tán tìm đường
thoát ra bờ biển nên không thể cứu nguy đồng đội. Hơn nữa lúc này
sóng gió bắt đầu thổi tới. Tuy công tác này mang lại kết quả ngoài
dự đoán của Bộ Chỉ Huy Sở, nhưng với riêng Nguyễn Châu và bạn bè
cùng toán, quả là một mất mát lớn lao. Về phía chính quyền Cộng Sản
(mấy hôm sau nghe được trên đài phát thanh Hà Nội), sau đêm thất bại
chua cay, chúng càng tỏ ra hết sức căm thù các toán Biệt Hải, và chỉ
thị dân quân các cấp vùng duyên hải: “Phải luôn đề cao cảnh giác bọn
Biệt Kích gián điệp, chuyên xâm nhập đường thủy đầy cực kỳ nguy
hiểm”. Đồng thời, thiết lập “tòa án nhân dân” xử tử Biệt Kích Vũ Văn
Sắc ngay trong cùng một tuần.
Mùa hè năm 1968, thêm một biến
cố đau thương nữa bất ngờ lại xảy đến cho vợ chồng Nguyễn Châu: đó
là Biệt Hải Phạm Việt, người em vợ mà anh hằng thương mến và đưa vào
Biệt Hải, thuộc toán Nimbus bị tử trận trong chuyến Loki tại bờ biển
Thanh Hóa.
Những vết thương chiến tranh theo thời gian cứ
liên tục đeo đuổi gậm nhấm tinh thần của anh, khiến bạn bè ai cũng
đều nghĩ thầm, sau lần khế ước này, thế nào Nguyễn Châu cũng rời
Biệt Hải (những ai phục vụ trong Lực Lượng Hải Tuần & Biệt Hải đều
phải ký hợp đồng), nhưng anh đã làm tất cả mọi người hết sức ngạc
nhiên. Không những thế, Nguyễn Châu còn dốc hết khả năng phục vụ và
trở thành chiến sĩ xuất sắc nhất của Sở Phòng Vệ Duyên Hải sau này,
đồng thời cũng là một toán viên thâm niên thuộc LLBH, được các cấp
chỉ huy kính nể và tất cả anh em thương mến. Đặc biệt, chị Châu,
người bạn đời của anh thì thật tuyệt vời. Lúc nào chị cũng vui vẻ
hiếu khách, bất luận là ai, miễn người đó là bạn của chồng mình,
khiến tất cả anh em đều một lòng quý mến.
Cuối năm 1968, các
công tác miền Bắc hoàn toàn chấm dứt, sau khi chương trình Việt Nam
Hóa Chiến Tranh được thi hành. Các cố vấn Mỹ của LLBH lần lượt về
nước, đồng thời các quân nhân thuộc Lục Quân và số dân chính tình
nguyện được lệnh thuyên chuyển, hoặc xin sang hoạt động trong các
Đoàn Công Tác (vì muốn thay đổi đơn vị hoặc để tìm những cảm giác
mới lạ trên rừng núi Trường Sơn bạt ngàn), trừ một số rất ít vì nặng
gánh gia đình, xin rời khỏi toán, trở về nguyên quán, vô tình để lại
một khoảng trống cho các Toán nói riêng và Lực Lượng Biệt Hải nói
chung. Phần nhân viên phụ trách huấn luyện cho các khóa Biệt Hải kế
tiếp cũng thiếu, nên CHT Biệt Hải đã mau mắn đề cử Nguyễn Châu vào
làm phụ tá huấn luyện viên cho cả hai Khóa Biệt Hải 70 và 72. Một số
đông vẫn yêu thích phiêu lưu với đại dương, đã quyết định gia nhập
binh chủng Hải Quân, chờ đợi được tái hoạt động ra Bắc.
Cũng
từ thời gian này, các công tác Biệt Hải hoàn toàn chỉ hoạt động ở
miền Nam. Thỉnh thoảng có những công tác hết sức quan trọng, nên Bộ
Chỉ Huy cần tuyển gấp một số nhân viên ưu tú tham dự, và lúc nào
Nguyễn Châu cũng kéo tôi theo, đủ để chứng tỏ thân tình đồng đội anh
em, không những nơi bàn nhậu mà ngay cả những giờ phút tử sinh cũng
cần có bên nhau, qua nhiều chuyến công tác khó quên: Các chuyến giải
cứu tù binh Mỹ tại La Ngà, Phan Thiết, tại Mật khu U Minh Hạ, năm
1970-1971, hay lần đặc biệt đi cứu hai phi công Hoa Kỳ ở Cam Lộ, mùa
hè 1972 (*).
(*LTG)
Đây là kế hoạch
Rescue of BAT 21 Bravo đã được thực hiện thành công với 5
Biệt Hải VN và 1 US Navy Seal, cứu được hai phi công HK: Trung úy
Mark Clark và Trung tá Iceal Hambleton. Ngay trong vùng đất địch.
Người có công lớn nhất là BH/Người Nhái Nguyễn Văn Kiệt, khi ấy mang
cấp bậc Hạ sĩ I. BH Kiệt đã cùng Trung úy (US Navy Seal) Thomas
Norris tìm và cứu được Trung tá Hambleton trong tình trạng vô cùng
nguy hiểm khó khăn dưới sự truy sát của kẻ thù. Với sự quả cảm phi
thường ấy, anh Kiệt được Tổng Thống Hoa Kỳ trao tặng Navy Cross, một
trong những huy chương cao quý nhất dành cho quân đội đồng minh. Câu
chuyện này rất nổi tiếng và đã được một nhà đạo diễn Mỹ thực hiện
thành phim BAT 21 vào năm 1988. Điều đáng buổn và đáng tiếc là người
thực hiện cuốn phim đã thiếu lương tâm và sự công bình, khi không
nói đến chiến công thực sự của những Biệt Hải Việt Nam!)
Cuộc tao ngộ kỳ thú:
Sau này, tại Mỹ, cựu Biệt Hải Nguyễn Châu đã bất ngờ tái ngộ
một ngư phủ Quảng Bình, người đã từng bủa lưới trúng anh trong
lúc anh đang xâm nhập vào bờ, trong chuyến công tác 1966.
Anh kể lại cuộc trùng phùng hi hữu này như sau:
Tình cờ vào tháng Giêng năm 2009. trong dịp tết Nguyên Đán,
sau Thánh Lễ, Hội Đồng Giáo Xứ nơi tôi ở (Beaumont-TX) tổ chức
một buổi tiệc trà đầu năm tại Hội trường, để giáo dân gặp gỡ,
cùng nhau hàn huyên tâm sự về một năm đã qua. Tiệc nửa chừng, anh
Sương, một giáo dân trẻ đi từ miền Bắc, giới thiệu cha mẹ từ Việt
Nam sang thăm con. Tôi được may mắn ngồi chung bàn với ông bà
Dương, thân sinh của anh Sương. Và khi biết ông bà là người làng
Xuân Hòa, Quảng Bình, tôi liền làm quen và tìm hiểu, xem ông ta
có biết gì về các chuyến công tác của Biệt Hải ở vùng này, đặc
biệt là chuyến công tác cuối tháng ba năm 1966: vào một đêm tôi
và Hiển lội vào thám sát đã bị dân làng đánh cá bủa lưới bao vây,
nhưng sau đó đã để chúng tôi bơi đi. Ông Dương bèn kể lại:
– Đêm hôm ấy, bọn tôi đang chuẩn bị thả lưới đánh cá trước bờ
biển làng Xuân Hòa, xã Quảng Xuân, huyện Quảng Trạch, thuộc tỉnh
Quảng Bình, thì vào khoảng 11 giờ đêm, tôi và mọi người trên ghe
nhìn ra trông thấy một bầy cá từ ngoài khơi đi vào gần bờ. Khi
bủa lưới xong, đến gần thì mới thấy hai con cá voi.
(Những
điều ông Dương kể đều đúng với những nhận định của chúng tôi ngày
ấy: vì khi bơi xâm nhập vào bờ, chúng tôi mang áo quần bơi và
chân vịt cao su, màu đen, trông giống như những con cá voi)
Tôi nghĩ rất may cho ông Dương và những người ở trên ghe. Vì
nếu hôm ấy mà họ tới để bắt hay có hành động gì khác, chắc chắn
tất cả sẽ không còn ai sống sót, vì khi ấy súng hãm thanh trong
tay chúng tôi đã sẵn sàng nhả đạn. Và tôi đã hỏi thẳng ông Dương:
– Nếu hôm đó ông Dương bắt được hai chúng tôi ông sẽ làm gì?
Ông Dương nhìn tôi mỉm cười:
– Giả như hôm ấy mà tôi
bắt được các chú thì tôi sẽ dẫn vào trình cha xứ để xin cho các
chú được trà trộn sống trong giáo xứ một thời gian và sau đó tìm
lập gia đình thì bọn chính quyền sẽ không biết được.
Nghe
xong, tôi một phần tin ông vì cùng là người công giáo, và thầm
cám ơn ông. Nhưng thời gian cũng đã hơn 40 năm và bây giờ lại gặp
nhau tại đất nước Hoa Kỳ. Còn chuyện ngày xưa trên đất Quảng
Bình, sống trong chế độ cộng sản, nào ai biết được người ta còn
có tấm lòng và sẽ hành động những điều tốt đẹp?
Dù sao đây
cũng là một cuộc tao ngộ bất ngờ, tạo cho tôi cảm giác thú vị và
man mác nhớ lại một thời cùng đồng đội âm thầm vào sinh ra tử
trên phần đất của kẻ thù.
Điều mong ước cuối cùng:
Sau hơn 13 năm phục vụ trong Lực Lượng Biệt Hải, đã bao phen
cùng đồng đội vào sinh ra tử, xem cái chết nhẹ như sợi tóc, Biệt
Hải Nguyễn Châu hằng ước mơ được phục vụ trong đơn vị thầm lặng
nhưng rất kiêu hùng này suốt cả một đời, vậy mà anh đành phải
nuốt lệ khi nghe Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng vào ngày
30-4-75 oan nghiệt. Không thể nào chấp nhận sống với cộng sản,
anh cùng gia đình vượt biên sang Thái Lan, rồi Mã Lai và tới Tân
Gia Ba. Được chính phủ Hoa Kỳ đón nhận cho định cư đặc biệt vào
ngày 31-10-75. Hiện gia đình, gồm vợ chồng, tám người con (5 trai
3 gái) và chín đứa cháu nội ngoại, cư ngụ tại thành phố Beaumont,
Tiểu Bang Texas. Hơn 35 năm tha hương, anh luôn sống mẫu mực và
nuôi dạy con cháu nên người, biết yêu quê hương và trọng danh dự.
Được trang bị thêm đức tin của người Công Giáo ngoan đạo, anh đã
xây dựng một gia đình lễ nghĩa, biết yêu thương chia sẻ với tha
nhân. Tâm sự với mọi người, nhất là các đồng đội cũ, anh vẫn hối
tiếc là đã không còn phục vụ được cho Tổ Quốc, để quê hương và
dân tộc bị khốn khổ tang thương dưới sự cai trị của bọn cộng sản
man rợ, sẵn sàng bán nước cầu vinh.
Điều ước mong cuối cùng là khi
nhắm mắt, anh xin được các đồng đội phủ cho anh lá Quốc Kỳ VNCH
mà anh cùng các chiến sĩ Biệt Hải đã từng sẵn sàng xả thân bảo vệ.
BH Nguyễn Châu rất xứng đáng được đồng đội của anh đáp ứng
điều mong ước cuối cùng này. Đã có nhiều vị ở hải ngoại, dù cấp
bậc lớn hơn anh rất nhiều, nhưng chẳng có công trạng đặc biệt gì
với đất nước, có khi còn bỏ cả thuộc cấp vào những giờ phút sinh
tử nhất, khi chết còn được vài tổ chức long trọng phủ lá quốc kỳ
lên quan tài. Huống hồ, một chiến sĩ, cả một đời vào sinh ra tử,
sẵn sàng xả thân để bảo vệ quê hương như BH Nguyễn Châu, chẳng lẽ
không được đón nhận điều vinh dự đó hay sao?
Bài viết này,
như là một thể hiện lòng ngưỡng mộ của tác giả đối với Biệt Hải
Nguyễn Châu cùng tất cả các chiến sĩ Biệt Hải anh hùng khác của
QLVNCH, và xin được thay một nén hương tưởng niệm anh linh những
anh hùng Biệt Hải đã âm thầm hiến thân cho Tổ Quốc, mà nắm xương
tàn của rất nhiều anh em, đến giờ này vẫn không biết đang gởi ở
nơi đâu. Cũng xin thay một đóa hoa hồng tươi thắm nhất, gởi đến
chị Nguyễn Châu cùng tất cả các phu nhân Biêt Hải, dù còn sống
hay đã chết. Tất cả đều rất xứng đáng cho lòng biết ơn và trân
trọng của tất cả mọi người.
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
|
Hình nền: Biển Thái Bình/VN. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by ddcb chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, January 21, 2017
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang