Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Lịch sử
Lời giới thiệu: Mời
quý vị đọc bài viết này của Luật Sư Nguyễn Văn Chức người được luật
sư đoàn Sài Gòn chỉ định biện hộ (thày cãi) cho Trần Văn Đang đã kể
lại sự vụ của y như dưới đây để biết thêm về “Anh hùng Nguyễn Văn
Trổi” của việt cộng “anh hùng” như thế nào.
Khuyết danh
05 tháng 2/1968: Một người
lính VNCH đang lục soát
tìm vũ khí giấu trong người của 1 ông già
tình nghi là VC.
Chi tiết vụ án:
Tôi về đến nhà, đã thấy chiếc xe mô-tô đen
của trung sĩ Ân đỗ trong sân. Ân giơ tay chào, đưa cho tôi một phong
thư mầu vàng của tòa án Mặt Trận, và yêu cầu tôi đọc ngay. Phong thư
đóng dấu “tối mật”. Tôi xé ra. Bức thư bên trong chỉ vỏn vẹn mấy
dòng chữ đánh máy, nhưng tôi đọc rất lâu. Tôi ký sổ biên nhận, rồi
bước vào trong nhà.
Ân có chào tôi hay không, và chiếc mô-tô
rồ máy bỏ đi lúc nào, tôi cũng không để ý. Tôi đang bận nghĩ đến
hắn...
Cách đây
khoảng 3 tháng, luật sư đoàn Sài Gòn chỉ định tôi biện hộ cho hắn
trước tòa án Mặt Trận Vùng Ba Chiến Thuật. Hắn là tên đặc công bị
bắt trong khi đặt chất nổ trên đường Tự Do. Hắn bị truy tố về hai
tội phản nghịch và mưu sát; hắn có thể bị tử hình. Sau khi xem xong
hồ sơ, tôi vào nhà lao để gặp hắn. Đây là một thói quen nghề nghiệp,
và cũng là một cái thú. Nói chuyện với tử tù, thường phạm hay chính
trị, đôi khi hấp dẫn hơn đọc một cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất.
Tôi ngồi trong phòng đợi, nhìn ra vạt sân
nắng bên kia chấn song sắt, rồi chợt nhớ đến Nguyễn Văn Trỗi. Trước
đây, Trỗi cũng đã ngồi nói chuyện với tôi trong căn phòng này. Trỗi
khóc như một đứa con nít, thỉnh thoảng đưa hai tay lên vắt nước mũi
rồi quẹt xuống gầm bàn. Trỗi còn trẻ, mới 26 tuổi, nhưng trông già
như người 40.
Hắn
trẻ hơn Trỗi. Khi nhân viên nhà lao dẫn hắn đến gặp luật sư, miệng
hắn đang còn nhai nhóp nhép, hình như là khô mực. Người hắn sặc mùi
dầu khuynh diệp. Hắn khép nép ngồi xuống một cái ghế trước mặt, rồi
chăm chú nhìn tôi. Lúc đó tôi mới để ý đến cái đầu húi cua và khuôn
mặt non nớt của hắn. Khác hẳn với tấm hình đăng trên các báo: tóc
dài bù xù, và mặt nhăn nheo như mang đầy thẹo. Tôi mỉm cười hỏi: “Em
vừa húi tóc?”. Hắn gật. Tôi lại hỏi: “Em là Trần Văn Đang?”. Hắn
gật.
– Em có bí
danh Sáu Nhỏ, Hai Gà, Năm Lựu Đạn, có phải vậy không? Hắn gật.
– Em bị bắt khi đặt chất nổ trên đường Tự
Do, có phải vậy không? Hắn gật.
Tôi nói cho hắn biết: tôi là luật sư sẽ
cãi cho hắn trước tòa, hôm nay tôi vào nhà lao gặp hắn để tìm hiểu
thêm về tội trạng của hắn. Và tôi yêu cầu hắn kể lại tất cả sự việc
từ đầu đến cuối, để giúp tôi phối kiểm lại hồ sơ.
Hắn nhìn tập hồ sơ trên bàn, rồi nhìn ra
ngoài sân rất lâu, như đang suy nghĩ lung về một vấn đề. Tôi cũng
nhìn hắn và chợt thấy hắn dễ thương. Hắn vẫn ngồi im. Tôi hỏi: “Khi
lấy cung, người ta có tra tấn và hăm dọa em không?” Hắn mở to mắt
nhìn tôi. Tôi lại dục: “Em nên kể lại tất cả sự việc, từ lúc được
móc nối cho đến khi bị bắt, bị hỏi cung. Em kể lại hay không, đó là
quyền của em. Em cũng có thể từ chối không nhận tôi là luật sư của
em và chọn một luật sư khác. Đó là quyền của em”.
Hình như tôi còn nói nhiều nữa. Tôi muốn
đến gần hắn, tôi muốn được “hân hạnh” nói chuyện với hắn.
Hắn nhìn tôi, tỏ vẻ dè dặt. Tôi đợi một
lúc khá lâu, rồi lại hỏi: “Tất cả những điều em khai trong hồ sơ đều
là sự thật, có phải vậy không?”. Hắn gật đầu một cách thản nhiên.
Bên ngoài vạt nắng đã thu hẹp lại ở góc
tường bao quanh cái sân nhỏ. Tiếng người gọi đi thăm nuôi, tiếng
quát tháo, tiếng chửi thề... đã bắt đầu thưa thớt. Tôi không đeo
đồng hồ, và trong phòng cũng không có đồng hồ, nhưng tôi đoán lúc đó
khoảng 4 giờ chiều, nghĩa là gần hết giờ thăm nuôi phạm nhân. Riêng
tôi, vì là luật sư, tôi có thể nói chuyện với thân chủ cho đến 5 giờ
chiều. Khổ một nỗi, thân chủ lại không muốn nói chuyện với luật sư.
Tôi đành phải làm cái công việc bất đắc dĩ của nghề nghiệp, là tóm
tắt hồ sơ và đọc những điểm quan trọng cho thân chủ nghe, để thân
chủ hoặc xác nhận, hoặc phủ nhận.
Hồ sơ hắn dầy gần trăm trang đánh máy, gồm
phúc trình của Công An và An Ninh Quân Đội. Cô thư ký của tôi đã
chép độ 20 trang quan trọng nhất. Riêng tôi đã lận đận trọn một ngày
ở tòa án Mặt Trận để đọc lại toàn bộ hồ sơ và ghi chú thêm. Lận đận
như vậy, vì lương tâm nghề nghiệp, và cũng vì tò mò nghề nghiệp.
Trong những vụ án chính trị lớn tại miền Nam, tôi từng tiêu hoang
thì giờ tại tòa án, để đọc và suy nghĩ về những lời khai của các bị
can. Nhờ đó, tôi đã biết được cái lý do sâu xa đã khiến văn hào Nhất
Linh-Nguyễn Tường Tam uống thuốc độc tự vận, một ngày trước khi tòa
xử.
Tôi giở hồ sơ
hắn ra và bắt đầu đọc:
Hắn sinh tại Gò Dầu Hạ, bố vô danh. Mười
lăm tuổi, hắn mồ côi mẹ và được người chú mang lên làm công cho một
tiệm sửa xe Vespa tại đường Trương Minh Giảng-Sài Gòn. Trong thời
gian sống ở Sài Gòn hắn làm quen với một tên Tư. Tên này “xây dựng”
hắn, và gửi hắn vào bưng học tập. Bốn tháng sau, hắn trở về Sài Gòn
hoạt động trong tổ đặc công của tên Tư.
Một ngày trước khi bị bắt, hắn được tên Tư
cho đi ăn uống tại một con hẻm đường Nguyễn Huệ. Sau bữa ăn, cả hai
thả bộ ra đường Tự Do để quan sát địa điểm hành động. Đó là một cái
“bar” Mỹ mà hắn đã từng đi ngang qua nhiều lần. Chiều hôm sau, một
buổi chiều thứ Bảy, tên Tư đem về hai cái bọc, mỗi cái đựng 10kg
thuốc nổ và bộ phận nổ chậm.
Tên Tư gài bộ phận nổ chậm, rồi đặt cái
bọc thứ nhất trong thùng một chiếc Vespa mầu xanh. Cái bọc thứ hai
được đặt trong thùng một chiếc Vespa mầu trắng. Rồi cả hai cùng đi
tới địa điểm hành động. Lúc đó, đồng hồ nhà tên Tư chỉ đúng 5 giờ 15
phút. Hắn cưỡi chiếc xe Vespa mầu xanh, tên Tư cưỡi chiếc xe mầu
trắng, hai xe cách nhau khoảng 200 thước.
Hắn có nhiệm vụ phá cái bar Mỹ đã quan sát
chiều hôm trước. Còn tên Tư có nhiệm vụ phá cái bar khác gần khách
sạn Eden Rock ở cuối đường Tự Do. Khoảng 15 phút sau, hắn tới cái
bar Mỹ. Hắn ngừng xe lại, còn tên Tư tiếp tục đi về phía cuối đường
Tự Do. Hắn xuống xe, nhấc chiếc Vespa lên lề đường, rồi dắt chiếc xe
về phía cái bar Mỹ. Theo chỉ thị của tên Tư, hắn có nhiệm vụ đỗ
chiếc xe Vespa trước cửa cái bar Mỹ rồi bỏ đi. Tên Tư cũng cho hắn
biết: quả mìn sẽ nổ đúng 6 giờ. Hắn không đeo đồng hồ. Hắn biết chắc
hắn còn nhiều thì giờ, ít nhất là 15 phút để thi hành phận sự. Hắn
lấy chân đạp vào chiếc cần sắt của chiếc Vespa, kéo ngược chiếc
Vespa lên và dựng chiếc Vespa ngay trước cửa bar. Hắn chưa kịp bỏ
đi, thì người cảnh sát đứng bên kia đường thổi còi và ngoắc tay làm
hiệu cho hắn phải dắt chiếc xe đi chỗ khác.
Hắn đâm ra lúng túng, và trong lúc hạ cần
xe xuống, hắn làm đổ chiếc Vespa. Hắn hì hục dựng chiếc Vespa lên.
Người cảnh sát bên kia đường lại thổi còi. Hắn đâm ra hốt hoảng.
Chiếc Vespa trở nên quá nặng đối với hắn. Hắn sẽ phải dựng chiếc xe
lên. Hắn sẽ phải dắt chiếc xe đi chỗ khác. Và hắn chợt nhớ tới quả
mìn. Quả mìn sẽ nổ banh xác hắn.
Hắn không kịp nghĩ thêm gì nữa. Hắn rầm
chạy. Hắn chạy ngược về phía tiệm sơn mài Thành Lễ. Mấy người cảnh
sát bên kia đường rút súng, huýt còi đuổi theo. Và hắn đã bị bắt.
Khoảng 20 phút sau, nhân viên cảnh sát lục soát chiếc xe Vespa và đã
tìm thấy quả mìn. Theo phúc trình của cảnh sát, thì bộ phận nổ chậm
bị hư, nếu không, quả mìn đã nổ vào lúc 5 giờ 50 phút, nghĩa là lúc
hắn đang lúng túng với chiếc xe Vespa. Theo hồ sơ, hắn nhận hết tội,
tại Công An cũng như tại An Ninh Quân Đội, và không một lần nào phản
cung. Hắn có vợ và một đứa con trai 10 tháng.
Tôi đọc hồ sơ rất chậm, chờ đợi ở hắn một
phản ứng, một cử chỉ, một lời nói. Nhưng tôi đã đọc hết dòng chót,
mà hắn vẫn ngồi im, mặt cúi gầm xuống đất. Có lẽ hắn không nghe tôi
đọc.
Tôi muốn hỏi
hắn về những điểm trong hồ sơ, nhất là về tên Tư nào đó. Nhưng nhân
viên nhà lao đã bước vào cho tôi biết chỉ còn đúng 5 phút với hắn.
Tôi nhìn ra ngoài, thở dài. Vạt sân đã hết nắng. Khi xốc hồ sơ bỏ vô
cặp, tôi vô ý làm rớt tấm ảnh của thằng con trai tôi mới được 8
tháng. Tôi chợt nhớ ra: hắn cũng có một đứa con trai trạc tuổi đó.
Tôi liền hỏi: “Từ ngày em bị bắt, em đã gặp con chưa?”. Hắn nhìn tôi
rất nhanh, đôi mắt vụt trở nên khẩn thiết. Tôi lại hỏi: “Em có muốn
gặp vợ con em không?”.
Hắn túm tím miệng, nuốt nước bọt cái ực,
rồi nói một cách vội vàng: “Ông có giúp tôi được không?”. Tôi gật.
Lúc đó hắn mới cho tôi biết: theo lời khuyên của tên Tư, một tuần
trước khi đặt chất nổ, hắn đã cho vợ con về sống với quê ngoại ở Mỏ
Cày. Hắn hy vọng vợ hắn đọc báo đã biết tin hắn bị bắt và đã đem con
lên Sài Gòn ở với người chú. Hắn cho tôi hai địa chỉ ở miệt Cầu Ông
Lãnh, và xin tôi làm mọi cách để vợ con hắn vào thăm hắn trong tù.
Hình như hắn muốn nói nhiều nữa, nhưng nhân viên nhà lao đã bước vào
đem hắn đi. Hắn bỗng nắm chặt bàn tay tôi, cánh tay run run. Hắn
nhìn tôi, và tôi thấy mắt hắn ướt.
Chiều hôm ấy, khi ra khỏi nhà lao, tôi lái
xe thẳng đến khuôn viên nhà thờ Đức Bà, gửi xe cho một đứa bé, rồi
thuê xích lô đạp về chợ Cầu Ông Lãnh. Tối mịt, tôi mới ra về. Tôi
không tìm thấy vợ con hắn.
Trưa hôm sau, tôi viết hai lá thư, một cho
người chú, một cho vợ hắn, báo tin ngày tòa xử và nhắn vợ hắn đến
văn phòng tôi để làm thủ tục xin giấy đi thăm nuôi chồng. Ký xong
bức thư, tôi vào nhà lao báo cho hắn biết về cuộc tìm kiếm của tôi.
Nhưng tôi không được gặp hắn: hắn đã bị trả về An Ninh Quân Đội để
bổ túc hồ sơ. Từ hôm đó đến ngày xử, tôi không có dịp gặp hắn nữa.
Hôm tòa xử, tôi đi rất sớm. Mới 8 giờ sáng
tôi đã có mặt ở bến Bạch Đằng. Khi lái xe vào cổng tòa án Mặt Trận,
tôi thấy một thiếu phụ ôm con ngồi nép ở lối đi, bên cạnh một cái
lẵng mây. Không hiểu sao tôi nghĩ đó là vợ hắn. Tôi đỗ xe trong sân
tòa án, rồi đi bộ ra cổng gặp người thiếu phụ. Tôi hỏi ngay: “Chị là
vợ anh Đang?”. Thiếu phụ gật. Tôi hỏi: “Chị được tin hôm nào?”.
Thiếu phụ cho biết: khi đọc báo biết tin
chồng bị bắt, chị muốn lên Sài Gòn ngay, nhưng vì đứa con đau nặng,
nên ông bà già không cho đi. Cách đây bốn hôm, chị nhận được thư của
người chú báo tin ngày tòa xử, vả lại đứa con cũng đã gần hết bệnh,
nên ông bà già cho đi.
Tôi nhìn đứa bé nằm ngủ trong lòng mẹ. Da
nó xanh mét. Thỉnh thoảng nó cựa mình rên khe khẽ, người mẹ lại vỗ
nhẹ lên người nó để ru. Chị ta hỏi tôi: “Thưa ông, liệu ảnh có việc
gì không?”. Tôi không tìm được câu trả lời. Tôi nhìn đứa bé rồi hỏi:
“Cháu được mấy tháng?”. Chị ta trả lời: “Con sanh cháu được 10 tháng
thì ảnh bị bắt”.
Bỗng có tiếng còi hụ và tiếng người nhốn nháo. Tôi nhìn về phía
đường Bạch Đằng. Một chiếc xe nhà binh đang trờ tới. Đó là xe chở
tội nhân. Những người đứng dưới đường vội vàng dạt ra hai bên để cho
xe quẹo vào cổng tòa án. Khi chiếc xe đi ngang qua, tôi nhìn thấy
hắn, và người vợ cũng nhìn thấy chồng. Chị ta vội vã đứng lên, một
tay xách chiếc lẵng mây, một tay ôm con, lễ mễ chạy vào trong sân
tòa.
Đoàn tội
nhân đã xuống khỏi xe, đứng xếp hàng giữa sân tòa. Hắn đứng ở hàng
chót, ngơ ngác nhìn quanh như tìm kiếm. Vợ hắn gọi lớn: “Anh hai, em
và con đây nè”. Hắn quay mặt về phía tiếng gọi, và khi trông thấy vợ
hắn, hắn giơ hai tay bị còng lên như muốn ôm ghì một hình bóng. Vợ
hắn đứng cách xa hắn chỉ một khoảng sân nhỏ.
Chị ta bỏ chiếc lẵng mây xuống đất, ôm con
xăm xăm chạy về phía hắn. Nhưng người lính đã ngăn chị ta lại, rồi
ra lệnh cho đoàn tội nhân đi vào hành lang. Đây là một lối đi lộ
thiên, nằm giữa hai bức tường của hai dãy nhà quay lưng vào nhau.
Người ta dùng chỗ đó để tạm giữ tội nhân, trong khi chờ tòa gọi tội
nhân ra trước vành móng ngựa.
Hắn ngồi hàng chót, nép vào chân tường.
Tay hắn đã được mở còng. Vợ hắn lễ mễ ôm con lại gần. Người lính
định cản lại, nhưng thấy tội nghiệp, nên đã để cho đi qua.
Tôi chỉ kịp trông thấy người đàn bà ngồi
thụp xuống đất bên cạnh người chồng rồi khóc nức nở. Hắn không khóc,
mở to mắt nhìn về trước mặt, một tay để lên vai vợ, một tay vuốt tóc
con. Lúc sau người vợ lấy vạt áo lau nước mắt, rồi lấy ở trong lẵng
ra một xị nước ngọt đựng trong túi nylon đưa cho chồng: “Anh uống đi
cho đã khát, em có mua cho anh ổ bánh mì thịt ở trong lẵng”.
Hắn rời tay khỏi vai vợ, đỡ lấy túi nước
ngọt đưa lên môi, nhưng tay kia vẫn sờ trên mình đứa con, đôi mắt
dịu hẳn xuống. Trong một lúc tình cờ, hắn ngẩng đầu lên. Hắn nhìn
thấy tôi đứng bên kia tường. Tôi giơ tay làm hiệu chào hắn.
Chỉ còn độ một hai giờ nữa, tòa sẽ kêu đến
vụ hắn. Tôi muốn nói chuyện với hắn. Nhưng tôi không nỡ làm bận rộn
cuộc xum họp mà tôi linh cảm là cuộc xum họp lần chót. Tôi thở dài
ái ngại, rồi bỏ đi ra phía sân tòa. Thời gian như chậm lại. Hắn, con
hắn, vợ hắn, lởn vởn trong đầu tôi. Làm thế nào để cứu hắn khỏi
chết? Làm thế nào để tòa án hiểu rằng: hắn, cũng như Nguyễn Văn
Trỗi, cũng như bao thanh thiếu niên khác, chỉ là nạn nhân đáng
thương của một hệ thống đểu cáng và vô nhân đạo nhất lịch sử loài
người.
Mãi mười
một giờ trưa, tòa mới kêu đến tên hắn. Hắn từ hành lang đi ra, bên
cạnh hai người lính. Vợ hắn lễ mễ ôm con theo từ đằng xa, rồi ngồi
xuống một chiếc ghế cuối phòng xử. Phòng xử hôm đó đông nghẹt dân
chúng. Bên ngoài, trời oi ả như sắp có cơn dông.
Trước vành móng ngựa, hắn nhỏ bé và non
nớt hơn cái hôm tôi gặp hắn trong nhà lao. Da hắn xanh mướt, và nét
mặt thản nhiên. Tôi đến bên hắn, hắn quay lại nhìn tôi một thoáng
rồi lại nhìn thẳng đàng trước mặt. Không khí nặng nề. Cả phòng xử im
lặng. Ông chánh thẩm hỏi lý lịch, rồi truyền cho hắn trở về ghế bị
can để nghe bản cáo trạng.
Tôi cũng từ vành móng ngựa đi theo xuống
ngồi bên cạnh hắn. Hắn xích lại gần, như để tỏ lòng biết ơn. Viên
lục sự bắt đầu đọc bản cáo trạng, tiếng ông ta vang lên đều đều. Cả
tòa, từ ông chánh thẩm, ủy viên chính phủ, đến công chúng ngồi dưới,
đều lắng tai nghe. Chỉ có hắn là không. Hắn nhìn đăm đăm đàng trước
mặt, như đang suy nghĩ. Có lẽ hắn nghĩ tới vợ con hắn. Một lần, tôi
chợt thấy hắn quay đầu lại nhìn xuống cuối phòng xử, như muốn tìm
xem vợ con hắn ngồi ở đâu. Bỗng nhiên, mặt hắn biến sắc, tay hắn run
run, đầu cúi rầm xuống.
Viên lục sự đã đọc xong bản cáo trạng. Hắn
rời ghế bị can, rồi cùng tôi bước lên vành móng ngựa.
Ông chánh thẩm hỏi: “Anh đã nghe bản cáo
trạng. Anh bị cáo về tội phản nghịch và mưu sát. Anh có nhận tội
không?”. Hắn gật đầu.
– Anh có thể kể lại cho tòa nghe tất cả sự
việc từ đầu đến cuối không?
Hắn nhìn ông chánh thẩm, nhìn bồi thẩm
đoàn, nhìn ủy viên chính phủ, nhìn tôi, rồi lắc đầu.
Ông chánh thẩm lại hỏi: “Có phải anh đã đỗ
chiếc Vespa trước cái bar Mỹ?”. Hắn gật.
– Anh có biết chiếc Vespa có chất nổ
không?
Hắn gật.
– Anh đỗ chiếc Vespa trước cửa bar, để phá
cái bar đó, có phải không?
Hắn gật.
– Tên Tư bao nhiêu tuổi, vóc dáng như thế
nào?
Hắn đứng im
không trả lời.
Ông chánh thẩm nhìn tôi, tôi nhìn ông ta. Một bên ở vào cái thế khó
xử, một bên ở cái thế khó cãi. Đại tá Ủy viên Chính Phủ bỗng quát
lớn: “Tại sao bị can không trả lời?”. Hắn ngước mắt nhìn ủy viên
chính phủ, rồi đứng im như pho tượng.
Khi tòa trao lời cho ủy viên chính Phủ
chính thức đặt câu hỏi, thì ủy viên chính phủ nhún vai, như muốn nói
với tòa rằng ông không có gì để hỏi một bị can chỉ biết gật với lắc
đầu. Nhưng chỉ một vài giây sau, ông nói như hét: “Thằng Tư, tên
thật nó là gì. Địa chỉ nó ở đâu?”. Hắn lại nhìn ủy viên chính phủ
rồi im lặng. Một lần nữa, ủy viên chính phủ lại nhún vai và làm cái
cử chi quen thuộc để tòa hiểu rằng ông ta không còn gì để hỏi nữa.
Đến lượt tôi đặt câu hỏi. Tôi hỏi hắn:
“Khi bị lấy cung tại Công An và An Ninh Quân Đội, em có bị tra tấn
hoặc bị hăm dọa không?”. Hắn lắc đầu. Tôi lại hỏi: “Em có hối hận vì
đã trót nghe lời dụ dỗ của tên Tư không?”. Hắn cúi gầm mặt xuống lắc
đầu.
Tôi đã đưa
ra hai cây sào để cứu hắn. Không ngờ hắn đã từ chối không nắm lấy và
hình như còn thích thú để cho nước cuốn trôi đi. Nước mắt người vợ
và tình thương con đã không làm hắn thay đổi. Một đời luật sư, tôi
từng ngang dọc trong những vụ kiện lớn của chế độ, nhưng chưa bao
giờ tôi cảm thấy mình bất lực như hôm nay.
Ủy viên Chính Phủ đứng lên buộc tội. Trong
15 phút hùng biện, ông gay gắt lên án bị can. Ông nhấn mạnh đến
trường hợp quả tang phạm pháp, đến bản chất của tội trạng (phản
nghịch và mưu sát) và sự ngoan cố của bị can. Ông kết luận: “Trong
cuộc đấu tranh chống lại bọn cộng sản ‘kẻ thù của dân tộc’ chúng ta
cần phải nghiêm trị những bọn phá hoại, những tên cán bộ nằm vùng,
những tên đặc công khủng bố giết người không gớm tay.
Nếu hôm đó quả mìn nổ, bao nhiêu dân chúng
qua đường đã bị chết thảm, bao nhiêu người dân vô tội đã bị què cụt
đui mù...”. Ông yêu cầu tòa lên án tử hình. Tòa trao lời cho tôi.
Trách nhiệm của tôi quá lớn, và nhiệm vụ của tôi quá khó khăn. Tôi
biện hộ cho một bị can phạm tội phản nghịch và mưu sát với trường
hợp gia trọng. Bị can ấy nhận tội tại Công An, tại An Ninh Quân Đội,
và trước tòa án.
Bị can ấy từ đầu đến cuối không lúc nào phản cung. Bị can ấy từ chối
không trả lời tòa án, không trả lời ủy viên chính phủ, không trả lời
luật sư. Bị can ấy im lặng tuyệt đối, như để bảo mật cái tổ đặc công
giết người của hắn, theo một mệnh lệnh... Giọng tôi trầm trầm. Tôi
nói, hình như không phải cho tòa nghe, mà cho chính tôi nghe. Tôi
nói, để cố trả lời cho những câu hỏi mà chính tôi đang thắc mắc.
Tại sao hắn không có một lời để tự bào
chữa? Tại sao hắn đã nhận tội một cách thản nhiên, và không một lần
nào phản cung, trong hồ sơ cũng như trước tòa án? Hắn là một tên đặc
công bị bắt quả tang trong khi đặt chất nổ, chắc chắn hắn đã bị tra
tấn của công an trong khi lấy cung. Tại sao hắn không nói điều ấy ra
trước tòa? Và tên Tư? Tên Tư là ai? Tại sao hắn lại im lặng không
chịu cung khai về tên Tư? Tại sao hắn lại từ chối không trả lời
những câu hỏi có lợi cho hắn?
Không ai muốn chết. Không ai muốn bị hành
hình. Không ai muốn bị đập chết như một con chó ở góc tường, như
những nhân vật trong tiểu thuyết Kafka. Huống chi, hắn mới 21 tuổi,
có vợ, có con, và thương vợ thương con. Thế thì tại sao hắn lại im
lặng? Chỉ có một câu trả lời. Hắn bị quyến rũ phạm tội ác, và sau
khi bị bắt, hắn vẫn bị theo rõi. Hắn sợ vợ con hắn bị trả thù, hắn
đã phải im lặng, tuyệt đối im lặng.
Biết đâu trong phòng xử hôm nay, lại không
có tên Tư nào đó đang ngồi theo rõi hắn. Hướng về phía ông Ủy viên
Chính Phủ, tôi nói như tâm sự: “Tôi đồng ý với ông là chúng ta,
những người quốc gia, phải thẳng tay trừng trị, nếu cần, phải giết
những tên đặc công gian manh, những tên cán bộ khát máu, những tên
đặc công giết người không gớm tay. Nhưng trong hiện vụ, tôi không
nghĩ bị can là một tên cộng sản gian manh, một tên cán bộ khát máu,
một tên giết người không gớm tay. Và đây là điểm cực kỳ quan trọng:
quả mìn hôm ấy đã không nổ”.
Kết luận, tôi yêu cầu tòa khoan hồng. Bị
can mới hai mươi mốt tuổi, chưa hề can án, có vợ còn trẻ và con còn
nhỏ, vì vậy đáng được hưởng sự khoan hồng của luật pháp.
Sau lời biện hộ của tôi, tòa hỏi hắn:
“Luật sư đã biện hộ cho anh rồi. Anh có quyền nói lời chót. Anh muốn
nói gì không?”. Hắn lắc đầu. Tòa ngưng xử, bước vào phòng để nghị
án.
Khoảng một
giờ sau, tòa trở lại tuyên án: tử hình. Lập tức, hắn bị còng tay
mang đi. Lúc đó, đã quá trưa, những đám mây đen từ đâu kéo về bao
kín cả một góc trời đã mất ánh sáng. Dân chúng kéo nhau ra về. Tôi
xách cặp đi ra xe như người mất hồn. Khi lái xe qua cổng tòa án, tôi
thấy vợ hắn ôm con ngồi khóc. Tôi về văn phòng, viết đơn xin ân xá
cho hắn. Đây chỉ là thủ tục tòa án, nhưng tôi đã làm với tất cả sự
cẩn trọng của một lễ nghi tôn giáo. Tôi muốn cứu hắn khỏi chết. Vì
nhân đạo. Vì nghề nghiệp. Và cũng vì trường hợp cá biệt của hắn.
Hắn khác Nguyễn Văn Trỗi. Nguyễn Văn Trỗi
khóc lóc van xin trước tòa, và sau khi bị tòa lên án tử hình, Trỗi
đã hô lớn “Hồ Chí Minh muôn năm”. Hô xong lại khóc, lại van xin. Còn
hắn, hắn nín thinh. Không khóc lóc, không van xin, không hô khẩu
hiệu.
Hắn khác
Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Hữu Thọ huênh hoang và cao ngạo trước tòa.
Hắn chịu đựng, nhẫn nhục, đến độ gần như khắc kỷ. Tôi nghĩ đến con
chó sói trong bài thơ “La Mort du Loup” của thi hào Vigny.
Ba tháng đã trôi qua. Bức thư của tòa án
Mặt Trận mà trung sĩ Ân đưa cho tôi chiều hôm nay chỉ vỏn vẹn mấy
dòng chữ đánh máy: “Trân trọng báo để luật sư tường: đơn xin ân xá
của Trần Văn Đang đã bị bác. Ngày mai, hồi 5 giờ sáng, bản án tử
hình sẽ được thi hành. Nếu luật sư muốn hiện diện nơi hành quyết,
thì xin có mặt tại khám Chí Hòa vào lúc 4 giờ sáng. Trân trọng”.
Suốt đêm, tôi trằn trọc không ngủ, đầu óc
lởn vởn khuôn mặt của hắn, và hình ảnh của hắn ngồi trong hành lang
tòa án, một tay để lên vai vợ, một tay sờ lên mình đứa con. Chưa đầy
3 giờ sáng, tôi đã thức dậy, đi vào khám Chí Hòa. Tôi bước vào phòng
đợi, đã thấy một nhà sư gầy gò mặc nâu sòng đang ngồi lần chuỗi hạt.
Viên quản đốc nhà lao cho tôi biết: nhà sư
đã đến trước tôi cả nửa giờ. Lát sau, một linh mục béo tốt bước vào,
trong bộ quân phục thiếu tá tuyên úy. Bốn giờ ba mươi phút, ủy viên
chính phủ đến. Rồi đoàn người, gồm viên quản đốc nhà lao, ủy viên
chính phủ, luật sư, và hai vị tuyên úy, lặng lẽ đi vào một căn phòng
rộng. Thường nhật, đây là chỗ điểm danh tội nhân. Hắn đã ngồi đó từ
bao giờ, bên cạnh cái bọc quần áo. Ánh sáng vàng bệch của ngọn đèn
cáu bụi trên trần nhà phả xuống bốn bức tường trắng xóa.
Tôi chợt có ý nghĩ kỳ lạ là đang bước vào
căn nhà xác của bệnh viện. Đoàn người tiến lại gần hắn. Hắn đứng
dậy, đôi mắt như dò hỏi. Một phút im lặng, dài như một ngày. Đại tá
ủy viên chính phủ trịnh trọng nói với hắn: “Anh hãy cam đảm lên, và
nghe tôi đọc”.
Rồi ông lớn tiếng đọc bản án tử hình và bản quyết định bác đơn xin
ân xá của hắn. Hắn cúi đầu nhìn xuống sàn nhà, đôi mắt mở to. Người
hắn run lên. Nhưng chỉ giây lát, hắn lấy lại bình tĩnh. Hắn hỏi:
“Bao giờ người ta xử tôi?”. Viên quản đốc nhà lao để tay lên vai
hắn: “Ngay sáng hôm nay, trước khi mặt trời mọc”. Rồi ông thân mật
nói với hắn: “Bây giờ em muốn ăn uống gì không, khám đường sẽ chu
tất cho em?”. Hắn lắc đầu.
Lúc đó, không ai bảo ai, mỗi người nói với
hắn một vài câu an ủi. Không khí trở nên thân mật và âu yếm như
trong một cuộc tiễn đưa. Riêng tôi chỉ nhìn hắn, tôi muốn nói chuyện
riêng với hắn; đó là quyền của tôi, quyền của luật sư biện hộ. Ủy
viên chính phủ đồng ý, và cho tôi biết: tôi có 5 phút. Rồi đoàn
người bước ra khỏi phòng, để một mình tôi với hắn. Người cuối cùng
đã bước ra khỏi phòng. Hắn nắm lấy tay tôi, và nhìn tôi rất lâu, đôi
mắt ướt sũng. Tôi hỏi: “Em có muốn nói nhắn với vợ em điều gì
không?”.
Hắn suy
nghĩ giây lát, rồi nói: “Em bị chúng nó lừa. Luật sư có gặp vợ em,
thì bảo đừng ở dưới vườn nữa, và nuôi lấy con”. Tôi hỏi: “Em chết,
có điều gì oán hận không?”. Hắn không trả lời. Tôi an ủi hắn: “Người
ta, ai cũng phải chết một lần, đời sau mới là quan hệ. Em theo đạo
nào?”. Tôi là người Công giáo. Tôi ước ao hắn dành một vài phút để
nghĩ đến Thượng Đế và tình thương bao la của Người.
Nhưng ủy viên chính phủ đã bước vào nói
nhỏ: “Luật sư hết giờ rồi”. Rồi ông thân mật hỏi hắn: “Ở đây có hai
vị tuyên úy em muốn nói chuyện với ai?”. Hắn nhìn nhà sư mặc áo tu
hành, hắn nhìn vị linh mục mặc quân phục thiếu tá, rồi xin được nói
chuyện với nhà sư.
Tôi cúi đầu theo ủy viên chính phủ và vị
linh mục đi ra một góc phòng. Nhìn về phía hắn, tôi thấy nhà sư cúi
đầu tụng kinh, và hắn cũng cúi đầu như lắng tai nghe kinh. Khoảng
khắc, nhà sư ngẩng đầu lên, đặt tay lên vai hắn, trong một cử chỉ vỗ
về bao dung. Lúc đó, đồng hồ trên tường chỉ đúng 5 giờ sáng, giờ
khởi hành. Người ta xúm lại chung quanh hắn, mỗi người nói với hắn
một câu chân tình.
Hắn như chợt nhớ ra, xin phép được thay
quần áo. Một cảnh sát viên chạy lại cầm cái bọc quần áo đưa cho hắn.
Hắn mở bọc, lấy ra một chiếc sơ mi cụt mầu xám, và một chiếc quần
vải dragon đen đã bạc mầu.
Thay xong quần áo, hắn xin một điếu thuốc.
Viên quản đốc nhà lao mỉm cười, rút trong túi ra một bao thuốc lá
Ách Chuồn. Ông ta trịnh trọng lấy ra một điếu, dộng dộng trên ngón
tay cái, rồi đưa cho hắn. Hắn ngậm điếu thuốc, và được viên quản đốc
châm lửa. Lúc đó, nhân viên an ninh đến. Hắn ngoan ngoãn đưa hai tay
chụm ra đằng trước để người ta còng.
Rồi đoàn người lặng lẽ đi ra. Hắn đi đầu,
thản nhiên bước qua từng đợt cửa, thỉnh thoảng dùng hai tay còng đưa
điếu thuốc lên môi. Khi đoàn người ra tới sân nhà lao, điếu thuốc
gần lụi, và hắn buông rơi xuống đất. Hắn bước lên chiếc xe bít bùng,
đầu hơi cúi xuống. Cửa xe đóng sập lại. Tôi lên xe riêng, lái thật
nhanh ra khỏi nhà lao.
Chiếc xe của tôi lầm lũi đi trong đêm, ánh
đèn pha chiếu dài cả con đường Hòa Hưng, rồi đường Lê Văn Duyệt.
Thành phố Sài Gòn đang trở mình thức giấc, một vài gánh hàng đi nép
bên lề đường. Và đó đây, có tiếng động cơ quen thuộc của những chiếc
xe Lam dậy sớm.
Tới bùng binh chợ Bến Thành, tôi đã thấy một đám đông bu quanh vùng
ánh sáng của pháp trường cát. Những phóng viên ngoại quốc chạy nhốn
nháo, với máy ảnh và máy quay phim. Cảnh sát chận xe tôi lại. Khi
nhìn thấy chiếc áo đen của tôi, họ dẹp đám đông cho xe tôi tiến vào.
Tôi đỗ xe sát chân tường Nha Hỏa Xa, cách pháp trường cát độ 30
thước. Những ngọn đèn pha cực mạnh đã được đặt tại đó chiều hôm
trước. Tất cả đều chiếu vào pháp trường cát, tạo nên một vùng ánh
sáng rợn người. Một chiếc cọc đen đứng cô đơn, đằng sau là những bao
cát chất thành vòng cung. Cách đó 3 thước, là chiếc quan tài đậy
nắp, trên nắp có một tấm vải trắng. Xa nữa là chiếc xe chữa lửa.
Tôi đứng trong vòng ánh sáng chưa được 10
phút thì nghe tiếng còi hụ. Người ta chạy nhốn nháo. Tôi háy mắt
nhìn về phía tiếng còi hụ, thì thấy đoàn xe chở tội nhân đang tiến
tới. Chiếc xe bít bùng đỗ lại bên lề đường. Lát sau hắn bước xuống
khỏi xe. Tôi vội choàng lên người chiếc áo đen, chạy ra với hắn. Hắn
và tôi đi đầu, theo sau là đoàn áp giải. Hắn bước đều đều, mặt cúi
xuống đất. Dân chúng bu nghẹt chung quanh, chỉ chừa một lối đi được
ngăn giữ bằng hàng rào an ninh. Bây giờ chúng tôi đã bước vào vùng
ánh sáng.
Hắn
bỗng ngửng đầu lên, và đứng khựng lại. Người lính đằng sau lấy tay
đẩy nhẹ vào lưng hắn, hắn lại tiếp tục bước đi. Tôi đoán chiếc quan
tài và chiếc khăn liệm đã làm hắn khựng lại. Hình ảnh trung thực của
chiến tranh không được tìm thấy ở chiến trường “da ngựa bọc thây”,
mà được tìm thấy trong các bệnh viện, nơi đó có những hình hài cụt
chân cụt tay, những đống thịt bầy nhầy, những hố mắt sâu thẳm, những
cuốn băng bê bết máu, và những tiếng rên rỉ đau đớn. Và hình ảnh
trung thực của cái chết vẫn là chiếc quan tài, tấm khăn liệm và
những người thân yêu tiễn đưa.
Bây giờ, hắn và tôi đã bước vào trong vòng
những bao cát. Người ta mở còng, rồi giữ ghì lấy hai cánh tay hắn,
đẩy hắn dựa lưng vào chiếc cọc sắt. Hai cổ chân hắn bị cột chặt vào
thân cọc, hai cánh tay hắn bị kéo ngược ra đằng sau, cột ngược vào
một cái cọc ngang. Chiếc cọc ngang này hơi cao, hắn phải kiễng chân
lên. Hắn nhăn mặt kêu đau. Tôi nói với viên sĩ quan: “Đằng nào tội
nhân cũng sắp chết, ông nên cho hạ thấp chiếc cọc ngang xuống, kẻo
máu bị ngừng ở nơi nách, tội nghiệp”. Viên sĩ quan gật đầu, hạ thấp
chiếc cọc ngang xuống.
Hắn nhìn tôi, và lần đầu tiên hắn nói:
“Cám ơn luật sư”. Lúc đó, đội hành quyết đã sắp hàng chỉnh tề, chỉ
còn đợi sĩ quan Quân Trấn Trưởng của Quân khu Sài Gòn đến là khởi
sự. Một phút, hai phút, rồi ba phút... Cả pháp trường im lặng, trong
sự đợi chờ và trong ánh sáng chói chang.
Chỉ còn mình tôi đứng bên cạnh hắn. Hắn
bỗng trăn trối: “Em đã bị chúng nó lừa. Luật sư nhớ bảo vợ em đừng ở
dưới vườn, đừng nghe theo chúng nó và gắng nuôi con”. Tôi gật đầu.
Hắn nấc lên: “Con ơi, Cảnh ơi, Cảnh ơi”. Tiếng nấc của hắn làm tôi
mủi lòng.
Tôi để
tay lên vai hắn, định an ủi, nhưng cổ họng bị tắc nghẽn. Tôi chợt
nghĩ đến linh hồn hắn. Tôi thì thầm bên tai hắn: “Em hãy ăn năn hối
cải, và cầu xin Chúa giúp em chết lành. Em chết, nhớ phù hộ cho vợ
con em”. Hắn lại nấc lên: “Con ơi, con ơi, Cảnh ơi, Cảnh ơi”. Lúc
đó, có tiếng còi hụ. Quân Trấn Trưởng đến. Đội hành quyết đứng
nghiêm.
Người ta
bịt mắt hắn. Hắn vẫn nấc, vẫn gọi tên con. Có tiếng lên đạn đàng sau
lưng tôi. Ủy viên chính phủ nói lớn: “Xin ông luật sư đứng tránh xa
ra một bên”. Tôi đi giật lùi ngang về phía bên trái, mắt không rời
hắn. Miệng hắn vẫn lắp bắp gọi tên con. Một tiếng hô. Một loat đạn
nổ. Đầu hắn ngoẹo xuống, gục về bên trái. Máu từ trong người hắn
chảy róc xuống đùi, xuống chân, rồi bò ngoằn ngoèo trên lề đường.
Viên đội trưởng hành quyết tiến lại, nắm
tóc kéo ngược đầu hắn về phía sau, dí khẩu súng lục vào màng tang
bên trái của hắn, bắn phát súng ân huệ. Một tiếng “đẹt” khô khan.
Người ta vội vàng liệm xác hắn, và chiếc vòi nước của chiếc xe chữa
lửa vội vã phụt sạch những vết máu trên lề đường. Phương Đông, chân
trời đã bắt đầu hừng đỏ.
Tối hôm đó, đài phát thanh Hà Nội mặc niệm
hắn, hết lời ca tụng cái chết anh hùng của hắn. Đài phát thanh Hà
Nội nói rõ ràng: từ lúc bị trói vào cọc cho đến lúc bị hành quyết,
hắn đã noi gương anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, không ngớt đả đảo Mỹ Ngụy
và hô to khẩu hiệu “Hồ Chí Minh muôn năm”.
Nguyễn Văn Chức
Chú thích (của luật sư
Nguyễn Văn Chức):
Dưới đây là những chi tiết liên
quan đến vụ Trần Văn Đang. Bị can sinh năm 1942 tại Vĩnh Long, bị
bắt ngày 30 tháng 3 năm 1965 trong khi đặt chất nổ, bị đem ra tòa án
Mặt Trận hai tuần sau, và bị bắn tại pháp trường cát bùng binh chợ
Bến Thành sáng ngày 21 tháng 6 năm 1965.
Chánh thẩm xử án là đại tá Phan Đình Thứ
(tức Lam Sơn), linh mục tuyên úy Công giáo tên Thông, nhà sư tuyên
úy Phật giáo là đại đức Sĩ. Quân Trấn Trưởng là đại tá Giám.
Nguyễn Văn Trỗi bị bắt ngày 9 tháng 5 năm 1964, trong lúc đặt bom ở
gầm cầu Công Lý, chờ ám sát phái đoàn của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa
Kỳ Mc Namara. Y bị tòa án Vùng 3 Chiến Thuật xử tử hình. Trước tòa,
y khóc lóc, chửi bọn xúi y đi ôm bom là bọn “chó đẻ”, và xin tòa tha
tội. Khi tòa tuyên án tử hình, y hô to Hồ Chí Minh muôn năm. Hô xong
y lại khóc và xin tòa tha.
*** Năm 1993, tôi (luật sư Nguyễn
Văn Chức) có đọc cuốn “Chung Một Bóng Cờ “do nhà xuất bản Chính Trị
Quốc Gia (Hà Nội) ấn hành, gồm những bài viết của Nguyễn Văn Linh,
Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Văn Đồng... Cuốn sách đã dành một trang để nói
về cái chết của Anh Hùng Trần Văn Đang. Xin trích một vài dòng cuối:
“Sáng ngày 21 tháng 6 năm 1965 lúc 5 giờ 52 phút, Mỹ và chính quyền
Sài Gòn đem anh ra xử bắn tại pháp trường cát, với hy vọng có thể
khủng bố được tinh thần nhân dân Sài Gòn. Nhưng chúng đã lầm. Trước
đông đảo đồng bào và phóng viên trong và ngoài nước đang tụ tập dọc
đường Hàm Nghi và chợ Bến Thành, vừa bước xuống xe, Trần Văn Đang
dõng dạc nói lớn: Hỡi đồng bào chợ Bến Thành, hỡi đồng bào Sài Gòn
thân yêu, tôi là Trần Văn Đang đây, chiến sĩ giải phóng, tôi đánh Mỹ
để giải phóng dân tộc... Đả đảo đế quốc Mỹ... đả đảo tập đoàn tay
sai bán nước. Ngay sau khi súng đã nổ, anh vẫn không ngừng hô to Hồ
chủ tịch muôn năm, đả đảo đế quốc Mỹ “(trích trong Chung Một Bóng
Cờ, trang 886-887).
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by MĐ Nguyễn Minh Hoàng chuyển
Đăng ngày Thứ Tư,
July 13, 2016
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang