Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Sưu tầm - Tôn giáo
Nguồn:
http://minhtrietviet.net
Những Biểu tượng (Icons) Tôn giáo và Quân Đội
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trực tiếp tìm hiểu những tôn giáo khác sẽ giúp người tín đồ có được một trình độ tinh tế rất quý báu, một đức tính đặt cơ sở trên lòng khiêm cung. Chúng ta có khả năng làm nhiều điều tệ hại hơn nếu không học hỏi từ một thời đại mà đôi khi chúng gọi là Thời tăm tối.
Bài viết của Philip Jenkins – giáo sư khoa nhân văn thuộc chương trình Edwin Erle Sparks tại Penn State University. Ông là tác giả cuốn “Phần lịch sử thất lạc của Ky-tô giáo: Thời hoàng kim một nghìn năm của Giáo hội Trung Đông, Châu Phi, Châu Á – và giáo hội này đã chết như thế nào”, xuất bản năm 2008. Bài viết đăng trên tờ The Boston Globe năm 2008.
“Đức Phật có phải là quỷ
sứ không?”
Mặc dù ít ai trong hàng ngũ tín đồ Ky-tô
giáo dòng chính (mainline Christians) sẽ đặt vấn đề bằng ngôn ngữ
đối đầu như vậy, nhưng bất cứ tôn giáo nào cho rằng mình là con
đường duy nhất để đi đến chân lý đều gặp phải nhiều khó khăn trong
việc hòa giải vũ trụ quan của mình với đức tin của các tôn giáo lớn
khác. Hầu hết mọi giáo hội Ky-tô giáo đều cho rằng chỉ có một mình
Chúa Giê-su là Con Đường, là Chân Lý, là Sự Sống, và nhiều tín đồ
Ky-tô giáo còn thấy có bổn phận rao giảng thông điệp này cho những
người ngoại đạo (unbelievers) trên toàn thế giới. Nhưng điều này lại
tạo ra một xung đột cơ bản với tín đồ của những nhân vật tôn giáo
nổi tiếng như Ngài Mohammed hay Đức Phật. Dựa vào một cách giải
thích Thánh Kinh khá nghiêm khắc, một số tín đồ Ky-tô giáo coi những
đức tin kình địch này không những là sai lầm, mà lại còn là những
cạm bẫy do các thế lực ma quỷ cố tình giăng bủa.
Thái độ bất dung đối với các
tôn giáo khác — thực sự tin rằng người ngoại đạo sẽ vào địa ngục –
tự nó có lẽ đã đủ xấu xa, nhưng thái độ này ngày càng mang lại nhiều
hậu quả nghiêm trọng trong thế giới hiện thực. Khi thương mại và
công nghệ làm cho địa cầu bé lại, nhờ vậy các tôn giáo dễ dàng tiếp
cận nhau hơn bao giờ cả, thái độ bất dung nói trên có thể mang lại
những hậu quả đẫm máu: hãy nhìn kỹ những vụ tấn công kiểu
ngày-tận-thế (apocalyptic) tại Mumbai. Trong một thế giới như thế,
việc giáo dục tín đồ thuộc nhiều đức tin khác nhau biết nhìn nhận
giá trị của nhau, biết sống hòa bình bên cạnh nhau, không còn là một
vấn đề phong cách mà đã trở thành một điều kiện tiên quyết cho sự
sống còn của nhân loại.
Trong 30 năm qua, Giáo hội Công giáo
La mã đã đối phó nhiều cuộc tranh luận liên tục về tính đơn nhất và
ưu việt của Đức Ky-tô (Christ’s uniqueness), đồng thời trừng phạt
những nhà tư tưởng nào dám có những nỗ lực táo bạo chấp nhận các tôn
giáo lớn khác trên thế giới. Trong khi cuộc đối thoại giữa Ky-tô
giáo với Hồi giáo từng thu hút rất nhiều tít lớn báo chí, thì chính
những va chạm với Ấn Độ giáo và nhất là Phật giáo đã khuấy động
nhiều tranh cãi nhất trong hàng ngũ giáo hội. Các nhà thần học Sri
Lanka Aloysius Pieris và Tissa Balasuriya đã có nhiều cuộc tranh
biện với các nhà phê bình của Tòa thánh Vatican, và, gần đây, cuộc
tranh biện đã lan tới Mỹ. Năm ngoái, Tòa thánh Vatican ra lệnh mở
một cuộc điều tra nhắm vào Peter Phan thuộc Đại học Georgetown, một
nhà thần học Dòng Tên mà tội lỗi chính của ông, dưới mắt Tòa thánh,
là đã coi Phật giáo của quê hương Việt Nam của ông là một con đường
song hành đi đến sự cứu rỗi/giải thoát (a parallel path to
salvation). Nhưng, tuân theo ý kiến của Giáo hoàng Benedict XVI,
giáo hội nhất quyết không chịu từ bỏ tín lý cơ bản về vai trò ưu
việt của Đức Ky-tô. Trong một thư ngỏ, được phổ biến rộng rãi, gửi
nhà chính trị Italia Marcello Pera, Giáo hoàng Benedict tuyên bố
rằng “một cuộc đối thoại giữa các tôn giáo theo đúng nghĩa của từ
ngữ này là không thể nào có được”. Ngài nói, bằng mọi cách, chúng ta
phải duy trì những cuộc đối thoại với các nền văn hóa khác, nhưng
không phải trong một cách thế nhìn nhận các tôn giáo khác có giá trị
bình đẳng với Ky-tô giáo. Mặc dù Tòa thánh Vatican đương nhiên không
coi Đức Phật là ma quỷ, nhưng Tòa thánh lại lo sợ viễn tượng của một
tổng hợp tôn giáo (syncretism), một sự pha loãng chân lý Ky-tô giáo
do một sự trộn lẫn xấu xa (unholy mixture) với các đức tin khác.
Rõ ràng là, quan điểm này đã đặt Benedict vào một truyền thống
Ky-tô giáo vững chãi vốn phát triển tại Châu Âu từ thời đế quốc La
Mã. Nhưng lịch sử Ky-tô giáo còn có một truyền thống cổ đại khác
nữa, đi theo một con đường riêng biệt đối với giáo hội La Mã. Truyền
thống Châu Âu không phải là phiên bản duy nhất của đức tin Ky-tô
giáo, cũng không phải là kẻ kế thừa duy nhất của giáo hội cổ đại.
Qua hơn 1000 năm, nhiều chi nhánh hoàn toàn riêng biệt của giáo hội
thời cổ đã thiết lập những cộng đồng thịnh vượng tại nhiều nơi ở
Châu Á, và nội dân số của họ, những giáo hội này có thể sánh với
giáo hội Châu Âu vào thời đó. Những cộng đoàn Ky-tô giáo này không
phát xuất từ La Mã, nhưng nảy sinh trực tiếp từ phong trào Giê-su
đầu tiên tại thành cổ Palestine. Họ đã phát triển qua Ấn Độ, Trung
Á, và Trung Hoa, không ngần ngại chia sẻ với – và học hỏi từ – các
tôn giáo lớn khác của Phương Đông.
Mức độ hòa hợp mà những
tín đồ Ky-tô giáo này sẵn sàng chấp nhận được gợi lại trong một biểu
tượng tôn giáo đáng ngạc nhiên; biểu tượng này xuất hiện trên những
di tích và các chạm trổ trên đá tại nam Ấn Độ và dọc theo duyên hải
Trung Hoa vào đầu thời Trung cổ. Chúng ta dễ dàng thấy rằng biểu
tượng này mô tả một cây thánh giá, nhưng chỉ trong thoáng chốc chúng
ta lại nhận ra rằng cái đế của hình vẽ – tức cái gốc từ đó cây thánh
giá mọc lên – là một hoa sen, biểu tượng cho sự giác ngộ của Phật
giáo.
Ngày nay, hầu hết các giáo hội dòng chính (mainstream
churches) sẽ lên án một sự pha trộn như vậy là phản bội đức tin
Ky-tô giáo, một trường hợp điển hình về sự hỗn loạn của chủ nghĩa đa
văn hóa. Nhưng những tín đồ Ky-tô giáo đầu tiên tại Châu Á không hề
bận tâm về sự tổng hợp tôn giáo (syncretism) — họ tự gọi mình là
Nasraye hoặc Nazarene, theo danh xưng của những tín đồ đầu tiên của
Giê-su. Họ hòa đồng thoải mái với một tôn giáo lớn khác có phép tu
hành bí nhiệm vào thời đó, và hơn thế nữa, họ tin rằng cả hoa sen
lẫn thánh giá đều chuyên chở những thông điệp giống nhau về giác ngộ
và sự cứu rỗi. Nếu những người Nazarene này có thể tìm thấy ý nghĩa
trong biểu tượng hoa sen-thánh giá, thì tại sao những người Công
giáo ngày nay, hay những kẻ kế thừa đức tin mà Giê-su rao giảng lại
không thể? Nhiều tín đồ Ky-tô giáo đang miễn cưỡng chấp nhận sự kiện
là, nhiều giả định cơ bản của họ cần phải được xét lại triệt để khi
đức tin của họ trở thành một tôn giáo toàn cầu ngày nay. Nhưng ngay
cả những vị lãnh đạo giáo hội hiện đại, những vị thấy được sự phát
triển nhanh chóng của giáo hội ở miền nam thế giới, đều có khuynh
hướng coi những giá trị và truyền thống châu Âu như chuẩn mực không
thể thiếu, trong các vấn đề nghi lễ và thần học cũng như âm nhạc và
kiến trúc.
Nhưng thực tế vẫn là, Ky-tô giáo từ những ngày đầu
đã là một đức tin liên lục địa (intercontinental faith), được thiết
định vững vàng tại Châu Á và Châu Phi cũng như bản thân Châu Âu. Khi
chúng ta nới rộng tầm nhìn đối với Ky-tô giáo, một tôn giáo vào
khoảng năm 800 đã trải dài từ Ireland đến Triều Tiên, chúng ta sẽ
nhận thấy nhiều phương cách khác nhau theo đó tín đồ Ky-tô giáo đã
tương tác với tín đồ các tôn giáo khác, trong những cuộc tiếp xúc
làm thay đổi cả đôi bên. Trong điều kiện tốt nhất, những cuộc gặp gỡ
này cho phép các truyền thống văn hóa không những trao đổi tư duy mà
lại còn đan quyện nhau (intertwine) trong những cách thế làm phong
phú lẫn nhau, đấy là một chương sách đáng kính nể của lịch sử Ky-tô
giáo mà các giáo hội phương Tây hoàn toàn quên lãng.
Muốn
hiểu được câu chuyện lịch sử này, chúng ta cần tái phối trí những
tấm bản đồ đã có sẵn trong óc mình. Khi chúng ta nghĩ đến sự phát
triển của Ky-tô giáo, chúng ta nghĩ đến Châu Âu trước tiên. Chúng ta
vẽ ra trong trí hình ảnh một phong trào bắt đầu từ Palestine và
Syria và phát triển về phía tây để đi vào Hy Lạp và Ý rồi dần dần
lan lên lên các miền Bắc Âu. Châu Âu vẫn còn là trung tâm của Giáo
hội Công giáo, dĩ nhiên, nhưng nơi này cũng là nơi sinh ra các giáo
phái Tin Lành, tức những giáo phái đã ly khai Giáo hội La Mã. Đối
với hầu hết chúng ta, thậm chí khi nói đến “Giáo hội phương Đông”
cũng là nói đến một nhóm người châu Âu khác mà thôi, nghĩa là nói
đến khối tín đồ Chính thống giáo (the Orthodox believers), khối tín
đồ phát xuất từ miền đông Châu Âu. Nhà tư tưởng Công giáo Anh
Hilaire Belloc có lần tuyên bố rằng “Châu Âu là Đức tin Ky-tô giáo;
và Đức tin Ky-tô giáo cũng là Châu Âu”.
Nhưng trong những thế
kỷ đầu một số tín đồ Ky-tô giáo đã bành trướng theo hướng đông để đi
vào Châu Á và theo hướng nam để đi vào Châu Phi, tạo nên những giáo
hội khác biệt với giáo hội La Mã và những giáo hội này đã tồn tại
khoảng 1200 năm đầu tiên của lịch sử Ky-tô giáo. Chắc chắn không
phải là những giáo phái ngoài lề (fringe sects), những giáo hội bị
quên lãng này có gốc rễ nằm sâu trong những truyền thống lâu đời
nhất của giáo hội tông đồ [có nguồn gốc từ một trong mười hai tông
đồ của Giê-su]. Suốt chiều dài lịch sử của những giáo hội này, người
Nazarenes đã dùng ngôn ngữ Syriac, một ngôn ngữ gần với tiếng
Aramaic của Giê-su, và họ đi theo Yeshua chứ không phải Giê-su
[1]. Không một
giáo hội nào – kể cả Ky-tô giáo La Mã lẫn Chính giáo phương Đông có
thể tuyên bố mình được kế thừa từ phong trào sớm nhất của Giê-su
trực tiếp hơn những giáo hội [của người Nazarenes] này.
Thành
công đáng ngạc nhiên nhất của những cộng đoàn Ky-tô giáo phương đông
này là Giáo hội Phương Đông, thường được gọi là Giáo hội theo truyền
thống Nestorius (the Nestorian church)
[2]. Trong khi các giáo hội phương Tây bành
trướng ảnh hưởng trong khuôn khổ Đế quốc La Mã, những giáo hội nói
tiếng Syriac thành lập nhiều cộng đồng tại vương quốc Ba Tư rộng
lớn, một vương quốc ngự trị từ Syria đến tận Pakistan và biên giới
Trung Cộng. Từ các căn cứ của họ trong vùng Mesopotamia – tức Iraq
ngày nay – những tín đồ Ky-tô giáo theo truyền thống Nestorius
(Nestorian Christians) thực hiện các nỗ lực truyền giáo rộng lớn dọc
theo Con đường Tơ lụa xuyên qua miền Trung Á. Vào thế kỷ 8, Giáo hội
Phương Đông đã có một cơ cấu rộng lớn khắp hầu hết Trung Á, Trung
Hoa, và nam Ấn Độ. Giáo hội này có cả giới tăng lữ bề trên (senior
clergy) – những vị tổng giám mục – tại Samarkand và Bokhara, tại
Herat thuộc Afghanistan. Thậm chí một vị giám mục có nhiệm sở ngay
tại Tràng An, kinh đô của Trung Hoa – quốc gia này thời bấy giờ là
siêu cường lớn nhất thế giới.
Khi những người Ky-tô giáo theo
truyền thống Nestorius bành trướng ảnh hưởng xuyên qua Trung Á vào
thế kỷ 6 và 7, họ gặp phải các nhà hoằng pháp và các bậc thánh tăng
của một tôn giáo cũng đang bành trướng vững vàng không kém, đó là
Phật giáo Đại thừa (Mahayana Buddhism). Các tín đồ Phật giáo thời đó
cũng muốn truyền cho thế gian một con đường cứu độ, nên đã phát động
những cuộc hoằng pháp quan trọng từ các tu viện và chùa chiền Ấn Độ.
Trong thế giới đa dạng này, các tu viện Phật giáo và Ky-tô giáo rất
có thể đã đứng cạnh nhau như những láng giềng và đôi khi còn hợp tác
với nhau. Một số sử gia tin rằng những nhà truyền giáo theo truyền
thống Nestorius đã ảnh hưởng lên cách tu tập của môn phái Phật giáo
đang phát triển tại Tây Tạng thời đó. Các nhà tu của hai tôn giáo đã
đối thoại với nhau.
Trên bước đường rao giảng đức tin, các
nhà truyền giáo Ky-tô đương nhiên sử dụng các hình thức văn hóa vốn
đã quen thuộc với người châu Á. Họ kể tích truyện qua những câu kệ
(sutras), một dạng thơ được nổi tiếng nhờ sự vận dụng của các nhà sư
Phật giáo. Một tuyển tập gồm các câu kệ của Giê-su (Jesus Sutras)
được tìm thấy trong các thạch thất ở Đôn Hoàng (Dunhuang), thuộc
miền tây bắc Trung Hoa [3].
Một số bài viết của các nhà tu thuộc giáo phái Nestorius (Nestorian
writings) đã dựa vào tư tưởng Phật giáo khá nặng, khi họ dịch các
lời cầu nguyện và các nghi lễ sang một thứ ngôn ngữ mà độc giả châu
Á có thể hiểu được. Trong một số kinh sách, cụm từ Ky-tô giáo “các
thiên thần, tổng lãnh thiên thần và các chủ tầng trời” được dịch
thành ngôn ngữ của chư phật và chư thiên (buddhas and devas)
[4].
Đặc
biệt có một sự tích nói nên sự cộng tác đáng kinh ngạc giữa hai tôn
giáo. Vào năm 782, nhà sư Ấn Độ Prajna (Bát Nhã) đến Tràng An, mang
theo cả kho tàng kinh điển Phật giáo. Chỉ đáng tiếc là các kinh điển
này được viết bằng tiếng Ấn Độ. Brajna đã hỏi ý kiến vị giám mục địa
phương, Adam, người đã dịch nhiều phần trong Kinh Thánh ra tiếng
Trung Hoa. Các học giả Phật giáo và Ky-tô giáo tại đây đã cộng tác
với nhau trong một không khí thân hữu qua một số năm để dịch bảy
tạng kinh Phật dày cộm. Chắc Adam làm việc này vì tính tò mò tri
thức cũng như vì thiện tâm của tín đồ Ky-tô giáo nói chung. Chúng ta
có thể phỏng đoán về những đàm đạo giữa họ, chẳng hạn bằng những
trao đổi như sau: Ngài thật sự quan tâm về cứu khổ hơn là sám hối
tội lỗi chăng? Và các giáo sĩ của ngài cũng thiền định như các nhà
sư của chúng tôi, phải không?
Những nỗ lực này mang lại
thành quả vượt quá biên giới nước Tầu. Cư dân Tràng An vào thời điểm
này gồm có một số nhà sư Nhật Bản, những người sẽ mang chính những
bản dịch này về quê hương của họ. Tại Nhật Bản, những tác phẩm này
lại trở thành những kinh điển đặt nền móng cho những trường phái
Phật giáo quan trọng của thời Trung cổ tại xứ này. Tất cả những
phong trào nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản sau này, kể cả Zen, đều
có nguồn gốc từ một trong những trường phái cổ đại này và, nhiên hậu
– một cách lạ thường – có thể truy nguyên đến công đức của một giám
mục Ky-tô giáo.
Vào thế kỷ 12, những giáo hội thịnh hành tại
Trung Hoa và miền nam Ấn Độ đều sử dụng biểu tượng thánh giá-hoa
sen. Hoa sen là loài hoa tuyệt đẹp mọc lên từ bùn lầy. Còn biểu
tượng nào tốt đẹp hơn để tượng trưng cho sự vươn dậy của linh hồn từ
thế giới vật chất, cho sự chiến thắng của sự giác ngộ đối với vô
minh, dục vọng, và tham luyến? Suốt 2000 năm nay, các nghệ sĩ Phật
giáo luôn sử dụng biểu tượng hoa sen để chuyên chở những thông điệp
này trong vô số tranh ảnh và tác phẩm điêu khắc. Trong khi đó, cây
thánh giá Ky-tô giáo dạy một bài học tương ứng, về chiến thắng của
Thiên Chúa đối với tội lỗi và bất công, về sự yếu đuối của thế gian.
Một nơi nào đó tại Á Châu, các tín đồ bị quên lãng của Yeshua đã táo
bạo quyết định tổng hợp hai biểu tượng này, một nỗ lực cho đến ngày
nay còn khiến chúng ta phải suy niệm về sự song hành một bên là sự
giải thoát (liberation) và bên kia là sự cứu rỗi (redemption) mà mỗi
đức tin đã cống hiến cho loài người.
Trong phần lớn lịch sử
của mình, Ky-tô giáo là một tôn giáo mang bản sắc châu Á ngang hàng
với Phật giáo. Các giáo hội Ky-tô giáo châu Á tồn tại hơn một thiên
niên kỷ. Mãi cho đến thế kỷ 10, nghĩa là vào khoảng nửa đoạn đường
lịch sử Ky-tô giáo, số tín đồ của tôn giáo này tại Châu Âu mới vượt
quá số tín đồ tại Châu Á.
Cuối cùng, những đợt xâm lăng của
quân Mông Cổ tràn qua Trung Á và Trung Đông kể từ thập niên 1220 đã
xóa sạch các cộng đồng Ky-tô giáo châu Á. Cũng từ cuối thế kỷ 13,
thế giới lại đi vào một kỷ nguyên khủng khiếp do tình trạng thay đổi
khí hậu, giá lạnh toàn cầu, một hiện tượng đã cắt giảm các nguồn
lương thực một cách nghiêm trọng, gây ra nạn đói khắp nơi. Sự suy
sụp các hệ thống trao đổi hàng hóa và thương mại đã làm tê liệt các
thành phố, khiến thế giới trở nên nghèo nàn và yếu kém hơn trước.
Chủ nghĩa dân tộc thiếu khoan dung đã xóa sạch các cộng đồng Ky-tô
giáo tại Trung Hoa, trong khi một phong trào Hồi giáo hiếu chiến nổi
lên tàn phá các nhà thờ tại Trung Á.
Nhưng một sự ý thức về
thiên lịch sử Ky-tô giáo có chiều sâu này sẽ góp phần tích cực cho
việc tìm hiểu tương lai của tôn giáo này, cũng như quá khứ của nó.
Qua nhiều thế kỷ lâu dài, người Ky-tô giáo châu Á đã giữ quan hệ
thân thiết với các đức tin khác, những đức tin mà họ không coi là
những đối thủ nguy hiểm, nhưng là những bạn đồng hành trên con đường
đi tới giác ngộ. Thế giới quan của họ cực kỳ khác biệt với các chuẩn
mực đức lý phát triển tại Châu Âu.
Một ví dụ điển hình là,
chúng ta quá quen với ý niệm Ky-tô giáo giữ vai trò quốc giáo tại
các quốc gia hùng mạnh, những quốc gia gần như luôn luôn tìm cách áp
đặt một chính thống giáo đặc biệt nào đó trên thần dân của mình. Tuy
nhiên, nếu chúng ta nhìn vào quá trình lịch sử của Châu Phi và Châu
Á, chúng ta sẽ thấy rằng hằng triệu tín đồ Ky-tô giáo thường trải
nghiệm sự hiện diện của mình như các khối dân thiểu số hay thậm chí
đa số tại những quốc gia bị khống chế bởi một tôn giáo khác.
Để được lòng người bản địa, các giáo hội Ky-tô giáo hàng đầu tại
Á-Phi không còn lựa chọn nào khác hơn là khuôn nắn thông điệp Ky-tô
giáo theo những truyền thống trí thức phi-châu Âu (non-European
intellectual traditions). Các triết gia Ky-tô giáo [phương Đông] đã
từng trình bày thông điệp của mình trong các phạm trù Phật, Lão,
Khổng; vì vậy không có lý do gì họ không thể làm lại điều này trong
thế giới hiện đại. Khi các học giả ngày nay như Peter Phan cố gắng
đặt Ky-tô giáo trong bối cảnh châu Á và Phật giáo, họ chỉ kế tục một
nhiệm vụ đã được đặt ra chí ít cách nay 1500 năm.
Chú thích:
[1]
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Yeshua là tên gốc của Giê-su trong
ngôn ngữ Hebrew hay Aramaic – ND.
[2]
Nestorius (386-451) là tổng giám mục của Constantinople từ năm
428 đến năm 431. Ông sáng lập một học thuyết về sau mang tên ông,
đó là Nestorianism, nhấn mạnh sự tách biệt hai bản thể của Đức
Ky-tô, một của người và một của Thiên Chúa. Giáo lý của
Nestorius, bao gồm việc bác bỏ danh xưng “Mẹ của Chúa” từ lâu vẫn
dùng để gọi Đức Đồng trinh Maria, đã đưa ông đến tình trạng xung
khắc với các lãnh đạo giáo hội đương thời. Vì vậy ông bị kết án
là kẻ dị giáo và bị cách chức tổng giám mục của giáo xứ. Một số
đồ đệ trung thành của Nestorius đã ly khai với giáo hội và qua
nhiều thập niên sau đó đã di cư sang Ba Tư. Từ đó chủ nghĩa
Nesorius (Nestorianism) trở thành lập trường chính thức của Giáo
hội phương Đông (the Church of the East) – ND – Theo Wikipedia.
[3]
Đôn Hoàng là một cứ điểm trên “Đường Tơ Lụa”, con đường giao lưu
mậu dịch và văn hóa với Ba Tư và Trung Á. Ngày nay thị xã Đôn
Hoàng trực thuộc tỉnh Cam Túc, nước Trung cộng – ND.
[4]
Devas: Đây là những chúng sinh sống trên các cõi trời, hạnh phúc
hơn cõi người, nhưng sau khi chết vẫn còn tái sinh trong vòng
“sinh, lão, bệnh, tử” – ND.
Thật vậy, có lẽ chúng ta đang
nhìn một lịch sử bị đảo ngược, chúc đầu xuống đất. Hy vọng một
ngày nào đó, các sử gia tương lai sẽ nghiên cứu lại lịch sử vài
trăm năm qua của Ky-tô giáo, mà sự khống chế chủ yếu là Âu-Mỹ, và
sẽ coi đó chỉ là một giai đoạn bất thường (unnatural interlude)
trong một lịch sử lâu dài gấp bội, bao gồm một quá trình trao đổi
thành công giữa các tôn giáo lớn của nhân loại.
Xin xem
qua câu chuyện sau đây, do Timothy, một trưởng lão thuộc giáo hội
Nestorius (the Nestorian church), kể lại:
Khoảng năm 800, Timothy tham dự một cuộc tranh luận
nổi tiếng với nhà vua Hồi giáo tại thành Baghdad, một cuộc tranh
luận được đánh dấu bằng sự biết điều và phép lịch sự của cả đôi
bên. Đại để Timothy đã nói, hãy tưởng tượng tất cả chúng ta đang
ở trong một căn nhà tối tăm vào ban đêm và có kẻ ném một viên
ngọc quý vào một đống đá tầm thường. Mọi người tranh nhau tìm
viên ngọc, và có người nghĩ rằng họ đã tìm ra viên ngọc ấy, nhưng
nào ai dám chắc về điều này mãi cho đến khi có ánh sáng ban ngày.
Trong một cách thế tương tự, ông nói, viên ngọc đức tin và
trí tuệ đích thực này đã rơi vào đêm đen trong một thế giới tạm
bợ; nhưng mỗi tôn giáo lại tin tưởng rằng mình là kẻ duy nhất đã
phát hiện viên ngọc quý đó. Tuy nhiên tất cả những gì mà Timothy
có thể nói – và tất cả những gì mà vị vua Hồi có thể trả lời –
chung quy cũng chỉ là: một số tôn giáo cho rằng mình đã có đủ
chứng lý để chứng minh rằng mình đang thủ đắc viên ngọc đích
thực, nhưng chân lý tối hậu vẫn là một ẩn số trong cõi nhân gian
này.
Trực tiếp tìm hiểu những tôn giáo khác sẽ giúp người
tín đồ có được một trình độ tinh tế rất quý báu, một đức tính đặt
cơ sở trên lòng khiêm cung. Chúng ta có khả năng làm nhiều điều
tệ hại hơn nếu không học hỏi từ một thời đại mà đôi khi chúng gọi
là Thời tăm tối (the Dark Ages).
Theo TLW
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
|
Hình nền: Hồ thu, Nhật Bản. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by MN Đỗ Như Quyên chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, October 7, 2016
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang