Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề: 30-T4-D
Tác giả:
Minh
Hòa
Lời Tác giả: Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận
chồng chúng tôi là “các ông cải tạo” như người miền Nam vẫn kêu
với tấm tình trân quý, để phân biệt với những người tù hình sự.
Vâng, những người đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản mới
là những người xứng đáng với đàn bà con gái miền Nam ở lứa tuổi
tôi. Chị em chúng tôi gọi đó là “tấm bằng tù cải tạo” của các
ông để chọn gửi cuộc đời, dù là trao gửi vào một nơi bất
định....
Minh Hòa
Virginia, 2015-04-29.
Tôi
quen anh năm 17 tuổi, khi còn cắp sách đến trường. Lúc ấy anh là
sinh viên sĩ quan năm thứ ba, hai
mươi tuổi đời, nhưng dạo đó trong mắt tôi anh thật chững chạc,
lại tài hoa, và cũng không thiếu... si mê.
Anh nhất định
đòi cưới tôi ngay sau khi ra trường, nói rằng Thầy Mẹ anh sẽ ưng
ý, không thể phản đối. Tôi hình như có hơi ngạc nhiên và hơi...
sợ sợ, vì tuổi 18, 19 thời đó còn nhỏ lắm, chẳng biết gì, chỉ
biết rằng tôi hình như cũng... yêu anh nhiều lắm. Tôi còn nhớ,
tuy còn nhỏ và ngây thơ lắm, nhưng những ngày giữa năm thứ tư
của anh, từng đêm tôi đã thổn thức một mình. Cảm giác lúc ấy là
chỉ sợ mất anh vào nơi gió cát mịt mù mà biết bao người trai đã
ra đi không hẹn ngày về. Và tôi nhất quyết lấy anh, tuy anh làm
phiền lòng Ba Má tôi không ít, khi anh dứt khoát từ chối mọi
công lao chạy chọt của song thân tôi ngay từ truớc ngày anh tốt
nghiệp. Gia đình tôi ngần ngại, nhưng tôi là con gái út, được
cưng nhất nhà, vả lại cả nhà ai cũng quý mến anh...
Thế
là tôi rời ghế nhà trường năm 19 tuổi, lên xe hoa mà tưởng như
đang trong giấc mộng tình yêu thời con gái. Rồi thì giã từ quê
huơng Đà lạt yêu dấu, giã từ những kỷ niệm yêu đương trên từng
con dốc, từng vạt nắng xuyên cành trong hơi lạnh thân quen, từng
hơi thở thì thầm trong ngàn thông thương mến, tôi theo anh về
làm dâu gia đình chồng ở Sài Gòn. Tôi chưa hề được chuẩn bị để
làm dâu, làm vợ, đầy sợ hãi trong giang sơn nhà chồng, còn chưa
biết ứng xử ra sao, nhưng được cha mẹ và các em chồng hết lòng
thương mến.
Các chú em chồng nho nhã luôn luôn hoan hô
những món ăn tôi nấu nướng.
Tuần trăng mật thật vội vã
nhưng vô cùng hạnh phúc, chỉ vỏn vẹn trong thời gian anh nghỉ
phép ra trường, rồi trình diện đơn vị mới. Mùng sáu tết Tân Hợi
1971, Sư Đoàn Dù của anh đi mặt trận Hạ Lào. Hôm ra đi anh vui
tưng bừng như con sáo sổ lồng, trong khi tôi thẫn thờ... Anh
siết tôi thật chặt, không cho tôi khóc, nói rằng ra đi trong
dòng nước mắt vợ hiền là điều xui rủi.
Tôi vội vã gượng
cười, để rồi từng đêm thổn thức một mình trong căn phòng lạnh
vắng, run rẩy lắng nghe từng tin chiến sự miền xa... Thư anh từ
mặt trận toàn những điều thương nhớ ngâp tràn, pha lẫn những lời
như những tràng cười say sưa của người tráng sĩ đang tung mình
trên lưng ngựa chiến. Mẹ chồng tôi chẳng vui gì hơn tôi. Hai mẹ
con buôn bán xong thường đi lễ chùa, khấn nguyện. Bà cụ bảo tôi
“phải khấn cho nó bị thương nhẹ để mà về, chứ vô sự thì lại
không được về, vẫn còn bị nguy hiểm”... Tôi càng hoang mang,
thảng thốt, quỳ mãi trong khói hương với đầy nước mắt, chẳng
khấn được câu nào... Má tôi trên Đà lạt cũng vội lặn lội lên tận
cốc xa, thỉnh cho được tượng ảnh Bồ Tát Quán thế Âm để chồng tôi
về sẽ đeo vào cổ.
Sau trận đầu tiên ở Hạ Lào anh trở về
với cánh tay trái treo trước ngực. Tôi run run dội nước tắm cho
anh để nước khỏi vào vết thương, mà không giấu được nụ cười đầy
sung sướng, pha lẫn... đắc thắng, cảm ơn Trời Phật linh
thiêng...
Rồi anh lại ra đi. Tây Ninh, Cam Bốt, cùng
những địa danh trong các dòng tin chiến sự mà tôi thuộc nằm
lòng. Trảng Bàng, Trảng Lớn, Suông, Chúp, Krek, Đam Be... Anh đi
toàn những trận ác liệt một mất một còn với quân thù quái ác.
Vừa lành vết thương là lại ra đi. Tôi thành người chinh phụ,
thao thức từng đêm, vùi đầu vào gối khóc mùi trong lời khấn
nguyện Phật Trời che chở cho sinh mạng chồng tôi. Còn anh, anh
cứ đi đi về về trong tiếng cười vui sang sảng, hệt như các bạn
chiến đấu trong cùng đơn vị, mà nay tôi vẫn còn nhớ tên gần đủ:
các anh Tường, Hương, Trung, Dũng, Sinh, Chiêu, anh Sĩ, anh Tâm,
anh Quyền....
Mỗi lần trở về bình an là một lần cả nhà mở
hội, và mỗi khi nhận lệnh đi hành quân là một lần tôi thờ thẫn u
sầu trong lúc anh hăng hái huýt gió vang vang khúc hát lên
đường. Con người ấy không biết sợ hãi là gì, không cần sống chết
ra sao, và không hề muốn nghe lời than vãn, chỉ thích nụ cười và
những lời thương yêu chiều chuộng. Anh nói không biết tại sao
anh có niềm tin kỳ lạ là không có việc hiểm nguy nào hại được
thân anh. Tôi chỉ còn biết chiều theo ý chồng, không bao giờ dám
hé môi làm anh buồn bực, vì thời gian gần nhau quá ngắn ngủi,
tôi chỉ lo cho anh những phút giây hạnh phúc hiếm hoi của người
lính chiến, không muốn để anh bận lòng vì những nỗi lo âu. Lấy
chồng hơn hai năm sau mà tôi vẫn chưa có cháu, vì anh cứ đi, đi
mãi đi hoài, những ngày gần nhau không có mấy.
Rồi mùa hè
đỏ lửa nổ ra. Anh nhảy vào An Lộc, lăn lóc đánh dập đánh vùi với
địch quân đông gấp bội trong gần ba tháng trời, mất cả liên lạc
bưu chính, ở nhà không hề nhận một chữ một lời. Người hạ sĩ quan
hậu cứ mỗi tháng ghé lại gia đình thăm hỏi đều phải vẫy tay tươi
cười ngay từ đầu ngõ. Anh về được đúng một tuần, thì lại lên
đường đi Quảng Trị... Rồi anh lại bị thương ở cửa ngõ Cổ thành,
trở về trong phòng hồi sinh Tổng y viên Cộng Hòa. Trên đường tới
bệnh viện cùng với gia đình, tôi ngất xỉu trên xe của người anh
chồng...
Nhưng rồi anh vẫn đứng dậy, lại khoan khoái cất
bước hành quân. Ôi, không biết tôi mang nợ anh từ tận tiền kiếp
xa xôi nào, mà tôi yêu thương cái con người chỉ biết miệt mài
say mê chiến trận. Tôi chỉ biết ước nguyện của anh là trở thành
một tướng Patton của Việt Nam, “Rồi nước mình sẽ phải tự chủ hơn
lên, mấy năm nữa phải khác hẳn đi chứ. Nền nếp quân đội sẽ phải
thay đổi. Anh sẽ làm Tư lệnh đại đơn vị, để anh điều động liên
quân chủng, cả thiết giáp, máy bay, đánh giặc như Patton cho mà
coi. Cam bốt, Hạ Lào Trung Thượng Lào ăn nhằm gì... Hà hà.” Tôi
chỉ ậm ừ vì chẳng hiểu gì, khi anh thì thầm bên tai tôi vào một
đêm tôi dần thiếp đi trong đôi cánh của hạnh phúc, một lần anh
về phép hành quân...
Sinh cháu gái đầu lòng năm 1973 ở Đà
Lạt, anh về thăm mẹ con tôi và trường cũ, xong lại bay đi trấn
thủ đường ranh giới ngưng chiến ở vùng Tây Nam Huế...
Tháng tư năm 1975, đơn vị anh đóng quân ở Thủ Đức, chuẩn bị tử
chiến với quân thù. Chú em chồng là sĩ quan chuyển vận tàu
HQ505. Tàu ghé Sài Gòn để chuẩn bị đi công tác Phú Quốc. Chồng
tôi bảo cả gia đình, gồm Thầy Mẹ, các chú và cả mẹ con tôi,
xuống tàu đi Phú Quốc lánh nạn chiến sự, rồi khi yên sẽ lại trở
về. Tôi tưởng anh cũng định ra đi, nhưng anh quắc mắt nói tại
sao anh lại phải bỏ đi lúc quân lính của anh vẫn còn chưa nao
núng, “bọn nó làm gì thắng nổi khi cả Sư Đoàn Dù đầy đủ bung ra
phản công, cho nó ăn một cái Mậu thân nữa thì mới hết chiến
tranh, quân Dù đánh giặc một chấp bốn là thường, còn trận cuối
này là xong.” Anh hăng say như sắp xung trận, nhưng rồi anh quay
lưng lại, run giọng bảo tôi hãy bế con theo xe của ông anh ra
bến tàu. Đến nước đó tôi không còn gì sợ hãi, ôm con nhảy xuống,
nhất định đòi ở lại. Vợ chồng sống chết có nhau...
Ba lần
toan vượt thoát từ đầu đến giữa tháng 5 đều thất bại não nề. Anh
lên đường đi trại tập trung vào tháng 6, khi tôi đang mang bầu
cháu thứ nhì... Bé Dung ưỡn người đòi theo bố. Anh quay lại, vẫy
tay cười với mẹ con tôi. Vẫn nụ cười ấy, anh vẫn chẳng nệ âu lo
sống chết là gì, nhưng còn mẹ con em, anh ơi???...
Gia
đình nhà chồng tôi thiệt có phước, hầu hết đã theo tàu HQ505 đi
Phú Quốc rồi sang Mỹ, kể từ hôm tôi ôm con ở lại với chồng. Gia
đình tôi từ Đà lạt chạy về Sài Gòn, sống chen chúc quây quần đùm
bọc lẫn nhau. Hàng quán của gia đình chồng tôi bị tịch biên hết.
Tôi nhất định giữ chặt ngôi nhà của cha mẹ chồng để lại, đuổi
mấy cũng không đi. Chị ruột tôi bỏ dần vốn ra mua được ngôi nhà
khác, vì ông chồng ôm vợ bé chạy mất, nhà cửa xe cộ bị tịch biên
hết. Tôi và các anh chị em tôi chạy vạy đủ điều để lo sinh kế,
nuôi con thơ cha già mẹ yếu. Chồng tôi mịt mù tăm tích, chỉ có
đôi ba lá thư viết về từ trại Long Giao. Lên Long Giao cũng
không gặp. Anh bị đưa ra Bắc.
Năm đó tôi tròn 25 tuổi,
dung nhan tuy tiều tụy nhưng vẫn khiến nhiều kẻ phải suýt soa
dòm ngó. Biết bao người mai mối thì thầm bên tai tôi, thôi hãy
lo cuộc đời mới, sĩ quan ngụy đi Bắc chẳng có ngày về... Bao
nhiêu nỗi khổ đau dồn nén đột nhiên bùng nổ. Tôi vùng lên như
một con cọp cái: bác thử nghĩ coi cả bọn cả lũ tụi nó đó có đáng
xách dép cho chồng tôi không!!! Rồi ba mẹ con tôi ôm nhau khóc
vùi trong tủi hận.
Không, không, một ngàn vạn lần không.
Quanh tôi chỉ còn toàn rác rưởi. Vâng, những người đàn ông ở
miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản mới là những người xứng đáng với
đàn bà con gái miền Nam ở lứa tuổi tôi. Chị em chúng tôi gọi đó
là “tấm bằng tù cải tạo” của các ông để chọn gửi cuộc đời, dù là
trao gửi vào một nơi bất định... Còn gì nữa mà chọn lựa! Thà
vậy, đành thôi. Tôi đã là vợ anh, tôi vẫn tôn thờ anh trong tim
óc, làm sao khỏi lợm giọng trước bọn người lường lọc, bướm ong,
hèn hạ... Chị em tôi buôn bán từ thuốc lá đến bánh cuốn, bánh
ướt, bánh mì, thuốc tây, thuốc nam, kiêm luôn cắt chải gội uốn
tóc, làm móng tay... nhưng luôn tránh chỗ công quyền và nơi phồn
hoa nhan nhản những con mắt hau háu của bọn ăn cướp và bọn trở
cờ. Mấy anh chị em tôi đồng lòng, đùm bọc lẫn nhau, nên áo rách
nhưng một tấm lòng son tôi vẫn vẹn với câu thề...
Vượt
qua được thời gian khó khăn cực khổ nhất lúc ban đầu, sau ba mẹ
con tôi được gia đình chồng từ Mỹ chu cấp, tuy không dư dả nhưng
cũng đủ gửi quà ba tháng một lần, rồi lại dành dụm cho môt
chuyến thăm nuôi....
Anh từ miền cực bắc bị đưa về Thanh
Hóa chừng một năm, thì tôi xin được giấy phép đi thăm nuôi. Tôi
và chị tôi chạy đôn chạy đáo mua đủ một trăm năm chục ký quà để
tôi đem ra Bắc cho chồng. Bà cụ buôn bán quen ngoài chợ lại nhờ
đem thêm năm chục ký thăm dùm con trai, vì con dâu cụ đã vượt
biên. Cháu Dung đã lên 6, em Long nó 4 tuổi và chưa lần nào thấy
được mặt cha. Tôi đem cả hai con đi cho anh gặp đứa con trai.
Xuống ga Thanh Hóa, cả đoàn quân khuân vác vây quanh gọi mời
giục giã. Tôi và mấy chị cùng thăm chồng chia nhau giữ chặt hàng
hóa không cho ai khiêng vác, rồi tự mình kéo lê kéo lết đi thuê
nhà trọ. Có người đã đi về kể rằng cứ sơ ý là bị vác hàng chạy
mất. Chúng tôi cũng phải chia nhau ở lại nhà trọ coi chừng hàng
và đi chợ. Tôi nhờ một chị mua thêm được ký mỡ, về rang tóp mỡ
ngoài sân nhà trọ. Nghe con khóc, tôi vội vã chạy vô nhà. Chưa
kịp dỗ con thì nghe tiếng ồn ào. Quay ra, hai kẻ cắp đã bưng
chảo tóp mỡ ù té chạy, chị bạn rượt theo không kịp. Tôi khóc
thầm tiếc hoài, cứ nghĩ những tóp mỡ kia đáng lẽ đã giúp chồng
mình đỡ bao đói khát.
Xe đò đi Thanh Cẩm chật ních những
bà thăm chồng. Chúng tôi năm người lớn và hai cháu xuống ngã ba
Nam Phát để vô Trại 5. Tôi lê từng bao hàng rồi lại quay lui kéo
lê bao khác, chừng hơn nửa cây số mới đến trạm xét giấy tờ vào
trại, hai cháu còn quá nhỏ chẳng muốn chúng đụng tay. Cô Út
thiệt giỏi, xong phần mình lại xông xáo giúp hết người nọ tới
người kia.
Xong giấy tờ, chờ một lát thì một người tù
hình sự đánh xe trâu đến. Hàng hóa và hai con tôi được lên xe
trâu, tôi và chị Phước, chị Điệp cùng hai mẹ con cô Út lẽo đẽo
theo sau. Đường đi xuyên trại xuyên rừng dài tám cây số. Chúng
tôi chưa biết lúc trở ra mới càng thê thảm.
Chân tay rã
rời, tới chiều tối mới thấy cổng trại 5 Lam Sơn. Đêm xuống bé
Dung còn phải phụ tôi gom lá mía cho tôi vội nấu hết gạo thành
cơm, nắm lại từng vắt, vì nghe nói công an không cho tù chính
trị đem gạo sống vô, sợ các anh âm mưu trốn trại. Đêm chờ sáng
để thăm chồng, nhìn hai con thơ ngây ngủ say sưa vì mỏi mệt, tôi
rời rã vô cùng nhưng không sao ngủ được. Hằng trăm hình ảnh
chồng tôi nhảy múa trong đầu... Chồng của tôi, người lính dù
hăng hái huýt sáo mỗi khi nhận lệnh hành quân ấy, nay đã ra
sao???
Sáng, đến lượt ra nhà thăm nuôi ngong ngóng chờ
chồng, tôi không được phép ra khỏi cửa căn buồng nhỏ xíu, kê một
bàn gỗ dài và hai ghế băng dọc hai bên. Đột nhiên một ông lạ
hoắc đứng lù lù ngay cửa. Tôi ngỡ ngàng chưa biết điều gì. Cô nữ
công an nhìn chòng chọc, hằn học, đợi chờ như con gà chọi sắp
tung đòn. Tôi không thể hiểu người con gái Bắc cỡ cùng tuổi tôi
kia thù hằn tôi điều gì. Tôi ngó lại, lát sau cô ta coi sổ xong,
mới nói đây là anh Đức mà bà cụ nhờ tôi đi thăm dùm. Mất nửa
tiếng giao quà và kể chuyện gia đình cho anh Đức nghe, tôi được
biết chỉ còn một tiếng rưỡi gặp chồng. Thế là tôi bắt đầu ôm mặt
khóc, càng lúc càng nức nở vì tủi cực, không thể nào cầm được.
Trên thế giới này có ai phải lặn lội hằng ngàn cây số để chỉ
được gặp chồng có một giờ ba mưới phút không hả Trời?!!
Hai cô công an lớn tiếng dọa dẫm, những là phải động viên học
tập tốt, không lau sạch nước mắt thì không cho ra thăm... Nhưng
kìa, ai như chồng tôi vừa bước ra khỏi cổng trại. Tôi không còn
nhớ quy định luật lệ gì nữa, vùng đứng dậy chạy nhào ra như một
tia chớp. Hai đứa nhỏ vừa khóc vừa chạy theo. Hai công an nữ bị
bất ngờ không cản kịp, đứng nhìn.
Tôi chạy tới ôm anh, và
càng khóc dữ, đôi chân khuỵu xuống, không còn sức lực. Trời ơi,
chồng tôi ốm
yếu đến nỗi tôi ôm không trọn một vòng tay. Người anh nhỏ thó
hẳn lại, chỉ có đôi mắt sáng với tia nhìn ngay thẳng là vẫn hệt
như ngày nào, nhưng nay đượm nét u buồn khiến tôi đứt ruột. Anh
vẫn không nói được lời nào, chỉ bặm môi nhìn tôi nhìn con thăm
thẳm. Tôi biết anh đang cố trấn tĩnh, vì không muốn rơi nước mắt
trước mặt công an. Anh dìu tôi và dắt con trở vào nhà thăm nuôi.
Anh nắm chặt tay tôi, đưa vào chiếc ghế băng. Cô công an lạnh
lùng chỉ anh bước sang chiếc ghế đối diện, rồi ngồi sừng sững ở
đầu bàn, cứ chăm chăm nhìn vào sát tận mặt tôi. Anh khuyên tôi ở
nhà ráng nuôi dạy con cho giỏi. Rồi thật nghiêm trang, anh bảo
tôi phải đưa con đi vùng kinh tế mới, về tỉnh Mỹ Tho chỗ bác
Chánh với chú Cương và cô Huyền đã tự nguyện đi khai hoang rồi,
đang chờ vợ chồng mình lên lao động sản xuất. Tôi hơi sững sờ,
rồi chợt hiểu, đang khóc lại suýt bật cười hân hoan, khi thấy
nét khôi hài tinh anh của chồng tôi vẫn còn nguyên vẹn. Bác
Chánh là tên gọi của Thầy Mẹ chúng tôi, chú Cương và cô Huyền
chính là chú Cường, chú em chồng đã đưa cả nhà xuống tàu HQ 505
đi lánh nạn. Cô công an có vẻ rất đắc ý, nhắc tôi:
- Chị
phải nói gì động viên anh ý đi chứ.
Anh nhìn mắt tôi,
cười thành tiếng. Tôi chợt cười, nhưng lại chợt giận hờn.
Tôi cúi mặt giận dỗi:
- Em không đi đâu hết, em chờ
anh về đã rồi muốn đi đâu cũng được.
Tôi lại khóc, hai
tay nắm chặt tay anh, chỉ sợ phải xa rời. Cô công an cứ quay
nhìn hết người nọ đến người kia, lên tiếng:
- Chị này hay
nhỉ! Phải đi kinh tế mới, lao đông tốt thì anh ấy mới chóng được
khoan hồng chứ! Trại giáo dục anh ý tiến bộ thế đấy, còn chị thì
cứ.... Chỉ được cái khóc là giỏi thôi!!
Anh không nhịn
được, lại cười khanh khách và nói:
- Đó em thấy chưa, cán
bộ ở đây ai cũng tiến bộ như vậy hết, em phải nghe anh mới
được... Em cứ thấy anh bây giờ thì biết chính sách Nhà nước ra
sao, cũng đừng lo gì hết, ráng nuôi dạy con cho nên người đàng
hoàng đừng học theo cái xấu, nghe...
Tôi dở khóc dở cười,
chỉ nắm chặt tay anh mà tấm tức, dỗi hờn. Anh gọi hai con chạy
sang ngồi hai bên lòng. Cô nữ công an do dự, rồi để yên, lại
tiếp tục nhìn sững vào mặt tôi. Anh ôm hôn hai cháu, nói chuyện
với hai cháu. Đôi mắt chúng tôi chẳng nỡ rời nhau. Mắt tôi nhòa
lệ mà vẫn đọc được trong mắt anh những lời buồn thương da diết.
Tội nghiệp hai con tôi đâu biết chỉ được gần cha trong giây lát
nữa thôi.
Tôi như một cái máy, vừa khóc vừa lay lay bàn
tay anh, nhắc đi nhắc lại, em sẽ đợi anh về, anh đừng lo nghĩ gì
nghe, em sẽ đợi anh về, em nhất định đợi anh mà... anh về rồi
mình cùng đi kinh tế mới... anh ráng giữ gìn sức khỏe cho em và
con nghe... Em thề em sẽ đợi anh về.... Em không sao đâu... Anh
đừng lo nghĩ, cứ yên tâm giữ gìn sức khỏe nghe, em thề mà, anh
nghe...
Tôi chợt thấy chồng tôi nhòa nuớc mắt. Cô công an
lúng túng đứng dậy, bỏ ra ngoài nhưng lại trở vào ngay, gõ bàn
ra hiệu cho người ở ngoài. Người nữ công an kia chẳng biết núp ở
đâu, lập tức xuất hiện, báo hết giờ thăm... Vợ chồng tôi lại ôm
chặt nhau ở đầu bàn bên kia ngay trước cửa phòng, bất chấp tiếng
gõ bàn thúc giục. Anh nắm chặt hai bàn tay tôi, chỉ nói được một
câu:
-Anh sẽ về đưa em và con đi, không thể quá lâu đâu,
đừng lo nghe, cám ơn em... đã quyết đợi anh về... Rồi anh nghẹn
ngào...
Tôi bị ngăn lại ngay cửa nhà thăm nuôi, cháu Dung
chạy ù theo cha, cu Bi nhút nhát đứng ôm chân mẹ cùng khóc. Tôi
ôm cây cột gỗ nhìn dáng anh chậm chạp buớc tới hai cánh cổng gỗ
to sầm, mà không thể nào ngưng tiếng khóc.
Anh ngoái đầu
nhìn lại hoài, bước chân lảo đảo, chiếc xe cút kít một bánh mấy
lần chao nghiêng vì hàng quá nặng...
Sáng hôm sau tôi như
người mất hồn. Các chị bạn cũng chẳng hơn gì. Mấy chị em và bà
bác dắt díu nhau ra, mới biết không được về lối cũ, mà phải đi
vòng bên ngoài trại cả gần hai chục cây số nữa để trở lại chỗ
ngã ba Nam Phát.
Đường xuyên rừng, rồi lại ra đồng trống,
nắng hanh chang chang như muốn quật ngã ba mẹ con tôi. Cu Bi mệt
lắm, có lúc ngồi bệt xuống, áo quần mồ hôi ướt nhẹp. Tôi phải
đứng giữa nắng đem thân mình che nắng cho hai con, dỗ dành
chúng, rồi lại bế cu Bi, lầm lũi bước thấp bước cao. Bà bác và
hai chị cùng cô Út cứ phải đi chậm lại chờ mẹ con tôi. Bao nhiêu
cơm gạo đã giao cho chồng hết, chúng tôi không còn gì ăn uống.
Dọc đường mua được mấy cây mía, tôi róc cho các con ăn cho đỡ
đói. Hai đứa không khóc lóc một lời. Bé Dung thiệt ngoan, luôn
miệng dỗ em cố gắng. Bụng đói, chân mỏi rã rời trong lúc chiều
cứ xuống dần. Đám người lang thang trong những cánh rừng tre nứa
âm u, trên miền đất không một chút tình thương. Ai cũng lo sợ,
dớn dác nhìn trước ngó sau, tự nhiên túm tụm lại mà đi, càng mệt
lại càng như muốn chạy. Tôi bế cu Bi, mỏi tay quá lại xoay ra
cõng cháu, vừa mệt vừa đói vừa sợ, lếch thếch vừa đi vừa chạy,
không biết sẽ ngã gục lúc nào. Cháu Bi nhìn thấy mẹ mệt quá, đòi
tuột xuống, rồi lại hăng hái tiến bước. May sao, đến hơn 6 giờ
chiều, trời gần tối hẳn, thì trở lại được ngã ba Nam Phát. Hai
công an dắt xe ra đạp về nhà, dặn chúng tôi ở đó đón xe đò ra
Thanh Hóa.
Đám người ngồi bệt xuống bên đường. Lâu lắm
mới có một xe chất đầy người chạy qua, nhưng đều chạy thẳng,
không ngừng. Đã hơn chín giờ đêm. Dáng cô Út cao mảnh rắn chắc
đứng vẫy xe in lên nền trời đêm đầy sao như một pho tượng thần
Vệ Nữ. Một xe lớn có hai bộ đội chở đầy tre nứa, từ xa chiếu đèn
pha sáng lòa trên dáng người con gái đảm đang ấy, từ từ dừng
lại. Chúng tôi xúm lại hứa trả thật nhiều tiền, rồi bà bác cùng
hai con tôi được lên ngồi ca bin, còn tôi với hai chị và cô Út
đẩy kéo nhau leo lên ngồi nghiêng ngả trên tre nứa, tay bám,
chân đạp chặt vô thành xe, qua năm tiếng đồng hồ trên con đường
đất dằn xóc kinh hồn, nhiều lần tưởng đã văng xuống đất. Hai bộ
đội tử tế, không lấy tiền, chỉ ăn hai tô cháo lòng mà chúng tôi
mời mãi. Ra đến Thanh hóa là hai giờ sáng. Các chị đi thăm chồng
xuống tàu đêm thật đông, thăm hỏi tíu tít, trả lời không kịp.
Khi ấy sao mà chị em chúng tôi thương nhau quá sức.
Vé về
Nam không có, phải mua vé ra Hà Nội rồi mới đi ngược trở về. Đêm
hôm sau mới đến ga Hàng Cỏ,
mấy bà con ra đường đang ngơ ngác thì các chị đằng xa đã đôn đáo
vẫy chào, kéo chúng tôi tới chỗ... lề đường, đầy những chiếu với
tấm ni lông, nơi tạm trú mà các bà “vợ tù cải tạo” gọi là...
Hotel California.
Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận chồng
chúng tôi là “các ông cải tạo” như người miền Nam vẫn kêu với
tấm tình trân quý, để phân biệt với những người tù hình sự. Cho
nên danh từ thường đi theo với ý nghĩa nào mà người ta hiểu với
nhau, không còn giữ được nguyên cái nghĩa mà nó được đặt cho vì
mục đích chính trị sâu xa.
Ngủ lề đường nhưng chẳng ai
thấy khổ, vì gần nhau thấy ấm hẳn tình người đồng cảnh. Các chị
em thì thầm trò chuyện suốt đêm, kẻ thì khóc rấm rứt, người lại
cười khúc khích. Tôi vừa ôm con ngủ gật vừa quạt muỗi cho hai
cháu, hình ảnh chồng tôi quay cuồng mãi trong đầu, khi anh nói,
khi anh cười, lúc anh đầy nước mắt... Sau những nguồn cơn cực
nhọc và xúc động mạnh này, về nhà tôi bị thương hàn nhập lý,
rụng hết mái tóc dài, gần trọc cả đầu, tôi đã trối trăn cho bà
chị nuôi dạy hai cháu, tưởng không còn được thấy mặt chồng tôi
lần nữa...
...Chín năm sau, đúng ngày giỗ đầu Ba tôi, anh
đột ngột bước vô nhà. Tôi suýt té xỉu vì vui mừng, cứ ôm chặt
anh mà.. khóc ngất. Anh cười sang sảng:
- Cái chị này chỉ
được cái khóc là giỏi thôi, phải động viên cho chồng đi sang Mỹ
đi chứ... Hà hà...
Các chị em tôi từ Đà Lạt tất bật xuống
thăm. Vừa xong ngày đám giỗ thì cả nhà đã vui như hội. Tất nhiên
tôi là người mừng vui nhất....
Hạnh phúc đã trở về trong
vòng tay tôi. Tôi sẽ ôm thật chặt lấy nguồn hạnh phúc này, không
bao giờ để cho đi đâu xa mất nữa...
Minh Hòa
16-11-2015
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Vũ Văn Chương chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, December 4, 2015
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang