Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Giới thiệu Sách
Chủ đề:
Điểm sách
Tác giả: Trần Trung Chính,
Nguyên Kỹ sư Canh Nông VNCH,
Nguyên Trưởng Ty Nông
Nghiệp Tỉnh Chương Thiện VNCH
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Tháng
12 năm 1975, trong “trại cải tạo Kinh 5, Chương Thiện”, trong
lúc ngồi uống trà đón Tết Tây 1976, anh Trần Trí Tâm hỏi tôi:
- Theo
suy nghĩ của anh đơn vị nào của Việt Nam Cộng Hòa là đơn vị
chiến thắng quân cộng sản trong thời gian 1954-1975?
Suy nghĩ mãi, tôi không tìm ra câu trả
lời thỏa đáng, vì Tướng Dương Văn Minh đã lên Đài Phát Thanh Sài
Gòn lúc 9:00 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 kêu gọi tất cả
các quân nhân “ở đâu ở đó”, buông vũ khí và ngưng chiến đấu...
Tất cả mọi người (kể cả quân dân cán chính) đều hiểu đó là “lệnh
đầu hàng vô điều kiện” sau 21 năm chiến đấu chống Cộng.
Anh Trần Trí Tâm phân tích sự việc
dưới nhãn quan chính trị như sau:
1. Tổng Thống Dương Văn Minh không
tuyên bố “đầu hàng”, mà ông tuyên bố “bàn giao chính quyền”. Nếu
tuyên bố “đầu hàng” như Nhật Hoàng Hirohito hồi tháng 8 năm 1945
thì phải có văn kiện ký kết xác nhận bằng văn bản, văn bản này
được 2 người đứng đầu của chính phủ 2 miền Nam-Bắc (nếu có đại
diện của ngoại giao đoàn càng tốt). Đàng này phía Bắc Việt là kẻ
chiến thắng nhưng không có văn kiện đầu hàng của chính phủ VNCH
thì trên phương diện pháp lý không có giá trị hữu hiệu.
2. Nếu “bàn giao chính quyền” thì phía
bên chiến thắng phải có vai vế tương đẳng “tiếp nhận chính
quyền”. Thượng úy Bùi Tùng, chính ủy trung đoàn thiết giáp là sĩ
quan cao cấp nhất vào Dinh Độc Lập bắt ông Dương Văn Minh lên
Đài Phát Thanh Sài Gòn đọc bài diễn văn do chính ông ta soạn
sẵn, rõ ràng không phải là giới chức có vai vế tương đẳng đối
với Tổng Thống Dương Văn Minh.
3. Thượng úy Bùi Tùng lại không có
giấy giới thiệu (hay còn gọi là ủy nhiệm thư) của Bộ Tổng Tham
Mưu quân đội Bắc Việt nên giả sử Tướng Dương Văn Minh không chịu
“bàn giao” thì có lẽ Bùi Tùng phải chỉ vào chiếc xe tăng T-54
hay y ta rút khẩu K-54 nói rằng những thứ này thay thế cho “giấy
ủy nhiệm” chăng? Điều này càng chứng tỏ Lê Đức Thọ hay Thượng
tướng Trần Văn Trà còn “rét” và “ngán” các đơn vị Nhảy Dù hay
Biệt Cách Dù trấn đóng tại các cửa ngõ vào Sài Gòn: thí cho
Thượng úy Bùi Tùng vào Dinh Độc Lập trước, nếu bị giết thì chỉ
có một mình Bùi Tùng thành “liệt sĩ”, còn nếu thành công thì
nhận vơ là “nhờ sự lãnh đạo tài tình của cấp lãnh đạo Đảng ta!”.
4. Bên Thắng Cuộc mà không có “văn
kiện đầu hàng” cũng như không có “biên bản bàn giao chính quyền”
thì chỉ nổi bật tính du côn dốt nát của những tên ăn cướp bình
dân vô giáo dục. Trong hiện tại, có lẽ chính quyền Hà Nội không
nhận được bất cứ khoản tiền nào (dù dưới danh xưng viện trợ hay
bồi thường chiến tranh từ phía Hoa Kỳ) vì thiếu không có 2 văn
bản tối quan trọng này. Trong tương lai vài trăm năm sau chẳng
hạn, những nhà biên khảo về lịch sử Việt Nam cũng không thể có 2
văn bản vừa nêu để minh danh sự chiến thắng của phía Bắc Việt.
Cũng có thể các nhà biên khảo lịch sử đành phải mượn nhận xét
của nghị sĩ John McCain, đại diện tiểu bang Arizona là “trong
chiến tranh Việt Nam, kẻ chiến thắng là những BAD GUYS”.
5. Cảnh Sát Quốc Gia VNCH là đơn vị
chiến thắng quân Việt Cộng: khối cộng sản tiến hành chiến tranh
“giải phóng miền Nam” đặt trên căn bản “nhân dân miền Nam nổi
dậy cướp chính quyền”. Chiếc xe tăng T-54 ủi sập cánh cửa Dinh
Độc Lập chạy vào sân cỏ thì đó là “chiến tranh xâm lược dùng
quân đội chính quy qui ước” chứ không phải là “chiến tranh do
nhân dân nổi dậy cướp chính quyền”. Không có bất cứ cá nhân nào
cũng như không có đoàn thể nhân dân nào nổi dậy cướp chính quyền
hết cả vì Việt Cộng thứ thiệt đã bị Cảnh Sát cho ra Côn Sơn tắm
biển trước đó rồi. Sau 30 tháng 4/1975, phải chờ có tàu chạy
đường biển ra Côn Sơn đem đám Việt Cộng này về Sài Gòn, chả lẽ
lúc đó tổ chức “xuống đường đi cướp chính quyền” thì dị hợm quá,
bọn lãnh đạo “Đảng ta” không dám làm.
Anh Trần Văn Chính - biên tập viên
khóa 4 của Học Viện CSQG, nguyên Giám Đốc khu Tù Chính Trị tại
Chí Hòa có tâm sự với tôi: “Có thể mình phải ở tù lâu không có
ngày về, cũng có thể là mình cũng bị chết trong trại tù, nhưng
tôi hãnh diện tự hào nói với bạn là ngành Cảnh Sát đã chu toàn
nhiệm vụ của mình”.
Chú thích của người viết:
Anh Trần Trí Tâm quê quán tại Cà Mau,
năm sinh khoảng 1934-1935, anh theo vị đàn anh là ông Kiều Công
Cung - Tổng Ủy Trưởng Công Dân Vụ từ hồi 1955. Ông Kiều Công
Cung là một nhân sĩ miền Nam theo Việt Minh kháng chiến chống
Pháp, Sau Hiệp Định Geneve 1954, ông Kiều Công Cung ra giúp Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm, khoảng 1960 ông bị ung thư được chính Tổng
Thống Diệm đưa ra ngoại quốc chữa bệnh, nhưng ông không qua
khỏi. Anh Trần Trí Tâm làm Phó Trưởng Ty Thông Tin tỉnh Long An
thời Thiếu tá Nguyễn Viết Thanh làm Tỉnh Trưởng và chơi khá thân
với Trung úy Nguyễn Viết Cần. Năm 1971, Tổng Trưởng Thông Tin
Trương Bửu Điện bổ nhiệm anh Trần Trí Tâm làm Trưởng Ty Thông
Tin tỉnh Quảng Đức. Năm 1974, anh ra ứng cử Hội Đồng Tỉnh của
tỉnh Quảng Đức và giữ chức Chủ Tịch Hội Đồng Tỉnh - tỉnh Quảng
Đức cho đến 30 tháng 4 năm 1975. Mãi sau này, khi ra hải ngoại
gặp một số cựu tù Trại Kinh 5 Chương Thiện, tôi được biết anh
Trần Trí Tâm qua đời khoảng 1981 vì chứng bệnh đau bao tử mà ở
trong tù làm gì có thuốc men để mà chữa.
Thiếu tá Liên Thành đã xuất bản 3
quyển sách: BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG 1966, HUẾ MẬU THÂN 1968, THÍCH
TRÍ QUANG, TỘI ĐỒ DÂN TỘC. Và năm nay 2017, dự trù sẽ xuất bản
quyển sách thứ tư với tựa đề TÌNH BÁO & PHẢN TÌNH BÁO VNCH ĐỐI
ĐẦU VỚI TÌNH BÁO CỦA VIỆT CỘNG, CỦA CIA VÀ DIA.
Từ 2008 đến nay, tất cả những độc giả
của 3 quyển sách đã lưu hành đều bày tỏ CẢM NGHĨ, có thể chia ra
thành 3 khuynh hướng:
A. Khuynh hướng tán đồng
B. Khuynh hướng chống đối
C. Khuynh hướng trung lập: có thể định
danh 2 chữ “trung lập” là không hoàn toàn chính xác, vì khuynh
hướng này không ngả về 2 khuynh hướng vừa kể, mà cũng là khuynh
hướng “vô cảm” nữa vì không bao giờ có ý kiến về những chuyện
không liên can gì đến mình.
Trong bài
viết này tôi không có ý định thống kê về khuynh hướng tán đồng
và khuynh hướng chống đối, lại càng không viết về những gì có
thể thay đổi chiều hướng của 2 khuynh hướng nói trên. Thực tế,
tôi không có khả năng xoay chuyển chiều hướng đó, phù hợp với
nhận định của nhà bác học Einstein: “phá vỡ một nhân nguyên tử
dễ hơn là phá vỡ một định kiến”. Như vậy những phần tiếp theo
trong bài viết này không còn nằm trong CẢM NGHĨ nữa, mà bước hẳn
vào lãnh vực SUY NGHĨ của riêng người viết.
Nhà văn Nguyễn Hưng Quốc (hiện định cư
tại Australia) đã nêu lên 4 quan niệm và 4 hình ảnh tối quan yếu
của LÒNG YÊU NƯỚC như sau:
1. Yêu nước là phải dấn thân tuyệt đối
2. Tuyệt đối trung thành:
vợ chồng có thể ly dị, yêu nước thì không
3. Hy sinh: các tình
yêu khác, hy sinh là tự nguyện, trong tình yêu nước, hy sinh là
một mệnh lệnh
4. Sự khuất phục:
tình gia đình còn bị giới hạn bởi luật pháp, trong tình yêu
nước, người ta được phép làm tất cả.
(Hết trích)
Tôi cũng quan niệm rằng nhan sắc và
thể hình của con người thuộc về tiên thiên không thể sửa chữa
hay không thể điều chỉnh được (tuy rằng hiện nay người đời tốn
khá nhiều tiền để giải phẫu thẩm mỹ, nhưng các vị bác sĩ giải
phẫu thẩm mỹ không có khả năng sửa đổi DNA, cũng như không thể
sửa đổi genes [những phần tử di truyền] và chromosomes [nhiễm
sắc thể] được). Và tất cả những gì còn lại (hậu thiên) đều tùy
thuộc vào giáo dục. Câu tục ngữ:
Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa đi quét lá đa.
Câu tục ngữ này cũng mang tính “giáo
dục” chứ không phải mang tính “kỳ thị giai cấp” vì con của vua
thì được dạy để cai trị thiên hạ, còn con sãi ở chùa được dạy
đọc kinh gõ mõ phục vụ nhu cầu tôn giáo cho bá tánh. Là người
địa phương Huế-Thừa Thiên, Thiếu tá Liên Thành biết rõ sinh hoạt
của các nhà sư Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh... Ngay từ nhỏ
họ được vào chùa nuôi dạy, biết chữ Hán, chữ quốc ngữ, chữ Phạn,
về sau một số học giỏi được du học Nhật, Anh, Pháp, Mỹ... lên
hàng chức sắc cao cấp của Giáo Hội, nhưng thiên Cộng, quậy phá,
gây rối loạn nhiễu nhương cho chính quyền VNCH!
Ba quyển sách đã phát hành của Thiếu
tá Liên Thành chỉ mô tả những sự việc đã xảy ra tại địa phương
Huế-Thừa Thiên trong khoảng thời gian 1966-1975, nhưng ông không
trình bày nguyên nhân, cho nên đã nảy sinh nhiều tranh cãi vì
độc giả chỉ sử dụng CẢM NGHĨ mà chưa thấy ai dùng đến SUY NGHĨ
để luận việc.
Nhận xét của tôi đó là vì các nhà sư
này được giáo dục trong chùa, nghĩa là tương tự như hồi thế kỷ
thứ 9 khi Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh... vừa mới đuổi được đế quốc
Trung Hoa giành được độc lập tự chủ. Các vị vua như Ngô Quyền,
Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn... đều là những chiến tướng, lên ngôi qua
các chiến trận cho nên chữ nghĩa, học thức và ngoại giao đều
thiếu sót. Thời Bắc thuộc, những trí thức của đất nước đều nằm
trong các chùa, vì các vị trụ trì đều là những học giả tinh
thông chữ Hán, chữ Phạn, thấu hiểu triết lý của kinh điển thỉnh
từ Trung Hoa, Ấn Độ... Những bậc đại sư như Khuông Việt, Vạn
Hạnh ra giúp các vị vua với tinh thần Bồ Tát Cứu Nhân Độ Thế,
xong việc các ngài trở về đời sống tu trì chứ không tham chính
tranh giành quyền lực. Người đời cũng như các sử gia gọi các
ngài là Quốc Sư, trong khi vào thế kỷ 20 có những lãnh tụ của
Phật Giáo Việt Nam lại nghĩ ông ta là “Quốc Phụ”!!!
Trong khi Việt Nam Cộng Hòa sau 1954
đã tiến rất xa so với nước Việt Nam thời Đinh-Lê-Lý-Trần, nhất
là Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã ký sắc lệnh cải tổ giáo dục vào
năm 1958, đưa môn Công Dân Giáo Dục vào học đường từ bậc tiểu
học cho đến bậc trung học đệ nhị cấp.
Giáo sư Bùi Đình Tấn, nguyên hiệu
trưởng trường trung học Chu Văn An Sài Gòn đã dạy môn Sử Địa năm
đệ nhất (lớp 12) đã dạy học sinh chúng tôi là Quốc Gia bao gồm 3
thành phần: Lãnh Thổ, Dân Chúng và Chính Quyền. Nhưng Chính
Quyền phải dạy cho dân chúng biết LÒNG YÊU NƯỚC thì mới có TỔ
QUỐC. Giáo sư Bùi Đình Tấn chỉ rõ, một số nước châu Phi hình
thành do sự cai trị của đế quốc Anh, của đế quốc Pháp, sau 1960
được trao trả độc lập, có quốc gia nhưng không có tổ quốc nên
nội loạn, nội chiến nhiều gấp bội thời kỳ đế quốc Anh-Pháp cai
trị.
Thời
trước 1975, Giáo Hội Phật Giáo được hậu thuẫn của đa số Phật tử,
nhưng trở nên phân hóa và lúng túng trong đường lối chính trị vì
các thành viên trong Ban Lãnh Đạo của Giáo Hội không hiểu rõ thế
nào là Tổ Quốc, Quốc Gia, Đạo Pháp, Dân Tộc và Đấu Tranh Giai
Cấp. Ra đến hải ngoại Giáo Hội Phật Giáo đã vượt qua giai đoạn
phân hóa mà tiến tới giai đoạn phân liệt: hiện nay các lãnh tụ
của Giáo Hội Phật Giáo trở thành các “sứ quân” hùng cứ tại mỗi
địa phương lo làm business như mở Đại Nhạc Hội, mở Show trình
diễn thời trang, làm DVD, CD ca nhạc...
Một nam sinh mù hỏi vị linh mục tuyên
úy trong trường trung học dành cho học sinh khiếm thị: “Thưa
thầy, có nỗi khổ nào lớn hơn nỗi khổ của một người mù không thấy
đường?”. Vị thầy trả lời: “Có chứ, đó là những người có mắt mà
không định hướng được cuộc đời của mình.”
Khoảng cuối năm 1970, Trung tá Phạm
Hậu (tức là nhà thơ Nhất Tuấn) của Nha Chiến Tranh Tâm Lý được
Bộ Thông Tin (ông Trương Bửu Điện làm Tổng Trưởng) xin với Trung
tướng Trần Văn Trung (Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Chiến Tranh Chính
Trị) cho phép chuyển qua làm Giám Đốc Đài Phát Thanh Sài Gòn. Cá
nhân Trung tá Phạm Hậu nghĩ rằng chức vụ Giám Đốc Đài Phát Thanh
Sài Gòn là do ông Hoàng Đức Nhã tiến cử với Tổng Trưởng Trương
Bửu Điện vì Trung tá Phạm Hậu không quen biết với ông Trương Bửu
Điện (thời điểm 1970, ông Hoàng Đức Nhã là Bí Thư kiêm Tham Vụ
Báo Chí của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu).
Mãi hơn 30 năm sau, nhân kỳ Đại Hội
Truyền Thông ở Houston vào tháng 4/2004, Trung tá Phạm Hậu đã
hỏi ông Nhã về việc này: ông Hoàng Đức Nhã đã trả lời khá chi
tiết nhưng cũng rất thẳng thắn:
Trích dẫn...
Theo
tôi, ở đời có 2 yếu tố thành công, tài của mình (30%), và mình
được cơ hội gặp cấp chỉ huy để có hoàn cảnh trổ tài chứng tỏ
mình có khả năng (70%). Khả năng của Hậu, qua gần 4 năm coi Hệ
Thống Truyền Thanh và Việt Tấn Xã. Hậu có làm việc được không?
Hậu và chúng tôi đã biết, khỏi nói thêm. Vậy chỉ cần nói yếu tố
đầu thật rõ ràng, dù chỉ 30%! Hậu còn nhớ lần tôi mời Đài Phát
Thanh Quân Đội và anh em bên báo Diều Hâu vào Dinh Độc Lập,
trong khi chờ Tổng Thống xuống ăn cơm chung với chúng ta, tôi đã
bàn sơ về đường hướng Thông Tin mà tôi đang phác họa và muốn thi
hành. Tôi còn nhớ mấy anh em đã cho tôi ý kiến rất thẳng thắn,
nhưng tôi chỉ nhớ thái độ professional của Hậu, với những lời
bàn luận rất sâu sắc. Sau buổi họp đó, tôi biết rằng Hậu là
candidat của tôi để về Đài Phát Thanh Sài Gòn. Phải nhắc lại
rằng lúc ấy tôi không được biết Hậu nhiều, nhưng tôi biết phải
lựa người có những đặc tính nào.
Đó là nhiệm vụ của người chỉ huy: tìm
những người tài giỏi, giỏi hơn chính mình, để làm những việc
quan trọng, và cho người đó đủ latitude để hoạt động. Khi tôi
trình lên Tổng Thống là tôi muốn đưa Hậu về Đài Phát Thanh Sài
Gòn vì tôi cần có người với những đặc tính như tôi nêu trên, và
sau khi Tổng Thống coi hồ sơ của Hậu, thấy là dân Võ Bị thì
thích thú, và hình như Tổng Thống có nói với tôi rằng Tổng Thống
có nhớ anh chàng này: The rest is history! Tóm lại, nếu có chút
tài, dù may mắn được người tiến cử, giúp đỡ... mà anh không
chứng tỏ thực tài khi vào công việc... thì sớm muộn họ cũng mời
anh đi chỗ khác!
Hết trích...
Ông Liên Thành khi chuyển qua Cảnh Sát
vào năm 1966 chỉ là Chi Khu Phó chi khu Nam Hòa với cấp bực
Thiếu úy Đại Đội Trưởng Đại Đội Địa Phương Quân. Sau khi Đại tá
Nguyễn Ngọc Loan ra Huế dẹp loạn (trong biến cố “biến động miền
Trung”), ông Liên Thành mới được hợp thức hóa là Sĩ Quan Cảnh
Sát nắm giữ chức vụ Phó Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt rồi khi lên
làm Trưởng Ty Cảnh Sát cũng chỉ mới mang cấp bậc trung úy. Những
cấp chỉ huy cao cấp trong ngành Cảnh Sát như Thiếu tướng Nguyễn
Ngọc Loan, Chuẩn tướng Trần Văn Hai, Thiếu tướng Trần Thanh
Phong... đều đã qua đời từ lâu. Hiện chỉ còn Thiếu tướng Nguyễn
Khắc Bình đang cư ngụ tại San José, chưa bao giờ ông Liên Thành
hỏi Thiếu tướng Bình về trường hợp của mình (như Trung tá Phạm
Hậu đã hỏi ông Hoàng Đức Nhã), nhưng nếu có hỏi thì tôi nghĩ
rằng câu trả lời của Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình chắc cũng
tương tự như câu trả lời của ông Hoàng Đức Nhã vừa nêu ở đoạn
trên...
Thành
quả của ngành Cảnh Sát VNCH, như đã nói ở đoạn trên, là buộc
cộng sản Bắc Việt từ bỏ “chiến tranh nổi dậy” chuyển sang hình
thái “sử dụng quân đội chính quy trong mục tiêu xâm lược”. Tức
là Đảng cộng sản Việt Nam từ bỏ sở trường của mình để sử dụng sở
đoản đối đầu với sở trường của Hoa Kỳ. Tuy tự xưng là “chiến
thắng Đế Quốc Mỹ” nhưng che dấu thiệt hại nhân mạng quá to lớn
khiến hơn 40 năm sau, Việt Nam vẫn chỉ là “con giun đất” chứ
không dám tự bốc thơm là “con rồng của Á Châu”.
Một thành quả to lớn khác mà ít được
chú ý, đó là khối Cộng sản Quốc Tế cũng không dám sử dụng “chiến
tranh nổi dậy” cho các cuộc xâm lược khác của Cộng sản Quốc Tế.
Dẫn chứng: sau chiến tranh Việt Nam, Liên Sô xâm chiếm
Afghanistan, Ethiopia, Angola... đều áp dụng chiến tranh xâm
lược với lực lượng quân sự quy ước.
Ông Donald Rumsfeld là một chiến lược
gia đại tài, khi Tổng Thống George W. Bush mở cuộc tấn công vào
Iraq vào năm 2003, ông Rumsfeld đã chứng minh cho chính giới Hoa
Kỳ là ông đã có “đáp số” cho học thuyết của ông:
1. Bài toán vận chuyển khoảng 200,000
binh sĩ Bộ Binh trong khoảng thời gian chỉ có 72 giờ đồng hồ.
2. Sử dụng phương thức Rangers và
Special Forces dùng trực thăng nhảy xuống phía sau đại quân của
Iraq để cắt dứt nguồn tiếp tế nước và lương thực + thực phẩm
khiến nhiều đại đơn vị cấp sư đoàn của Iraq phải đầu hàng. Chỉ
có 5 tuần sau, quân đội Mỹ tiến vào thủ đô, chiến tranh kết thúc
quá mau khiến tiết kiệm được tiền bạc, nhân mạng, vũ khí đạn
dược.
Trên đà
thắng lợi, ông Rumsfeld xin từ chức và được Tổng Thống Bush chấp
thuận. Lý do thật đơn giản: ông Rumsfeld và binh sĩ tác chiến
ngoài mặt trận không có kinh nghiệm và cũng không được huấn
luyện để đối phó với cuộc nổi dậy của các chiến binh Hồi Giáo
(thuộc đủ mọi giáo phái khác nhau). Người kế vị ông Rumsfeld là
ông Robert Gates - một giới chức thuộc ngành an ninh tình báo:
đây là giai đoạn mà người ta gọi là “Pacification” (hiểu theo
nghĩa tiếng Việt là giai đoạn bình định)
Tôi suy đoán là ông Robert Gates đã
đọc lại bộ sách viết về Kế Hoạch Phượng Hoàng do ông Williams
Colby và Ban Tham Mưu của ông soạn từ hồi 1967-1968. Dĩ nhiên
khi ứng dụng, ông Gates có linh động sửa chữa cho phù hợp với
thực tế. Vì thân tình, tôi được ông Liên Thành cho đọc trước tác
phẩm này trước khi bản layout của nó được chuyển tới nhà in. Một
thiếu sót nhỏ là ông Liên Thành không vẽ sơ đồ tổ chức hệ thống
Tình Báo và Phản Tình báo của VNCH như học giả Trần Trọng Kim
khi soạn cuốn Việt Nam Sử Lược: vào cuối mỗi triều đại, học giả
Trần Trọng Kim đều vẽ một “thế phổ” để người đọc và các nhà
nghiên cứu tiện việc đối chiếu.
Chiến binh trẻ tuổi nhất của cuộc
chiến Việt Nam 1954-1975 có năm sinh 1956, năm nay 2017 cũng
đang vào tuổi về hưu. Quyển sách thứ tư của ông Liên Thành không
phải là sách giáo khoa, nhưng quyển sách này có thể được xem như
một cẩm nang về tổ chức an ninh và nghiên cứu về hệ thống. Trong
tình hình rối ren bất an hiện nay trên toàn thế giới, vấn đề
SAFETY FIRST luôn luôn được chú trọng hàng đầu.
Giáo sư Đỗ Quý Toàn dạy Việt Văn tại
trường trung học Chu Văn An, ông cũng là Đạo Trưởng Đạo Hoa Lư
của Hướng Đạo Việt Nam, ông đã nêu khẩu hiệu và cũng là phương
châm của Hướng Đạo, đó là SẮP SẴN: nghĩa là con người Hướng Đạo
luôn luôn tự chuẩn bị và trang bị cho mình những thức cần thiết
cho tương lai sắp tới. (Hiện nay, giáo sư Đỗ Quý Toàn đang là
bình luận gia trên báo NGƯỜI VIỆT ở Nam Cali, dưới bút hiệu NGÔ
NHÂN DỤNG).
Tôi hy vọng và mong mỏi rằng những người có thiện tâm và mong
muốn quang phục lại quê hương, hãy nghiên cứu quyển sách này
theo chiều hướng mà tôi vừa đề nghị ở đoạn trên. Chế độ cộng sản
chắc chắn phải suy tàn: nếu chờ cơ hội đến mới lo đi học thì
chắc chắn không có thì giờ. Hãy hăng hái tiến bước về phía trước
như một hướng đạo sinh với tinh thần SẮP SẴN. Mong lắm thay!
Trần Trung Chính
San José ngày 01 tháng 6 năm 2017
Kỷ niệm ngày Sinh Nhật
Truyền Thống của
CSQG/VNCH
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những bài liên hệ
Lời Tựa sách Trận chiến Tình báo, Phản Tình báo
Trận chiến Tình báo, Phản Tình báo giữa VNCH/CIA & cộng sản Hà Nội
Đặt mua sách Trận Chiến Tình báo, Phản Tình báo giữa VNCH/CIA và...
Cảm nghĩ và Suy nghĩ về Lời tựa sách Trận Chiến Tình Báo, Phản Tình Báo
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by LT chuyển
Đăng ngày Thứ Hai, March 12, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang