Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề:
Xuân
Tác giả: Dư Thị Diễm Buồn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trong
ngôi nhà nhỏ nằm trên ven bờ sông dài xa tít mù xa. Không biết con
sông này bắt nguồn từ đâu và đi về đâu mà dài ngút ngàn, và quanh
năm nước ngọt, trong xanh như dòng nước Sông Cửu Long nơi quê nhà.
Mười mấy năm rồi sống ở đây, nhưng ba người họ không thấy trên sông
có sóng to gió lớn. Về mùa giông bão thì mặt nước sông chỉ chao
động, sóng dập dồn để rồi sau cơn mưa gió thì mặt sông trở lại hiền
lành bình bình, yên yên trơ gan cùng thời tiết bốn mùa xuân, hạ,
thu, đông của xứ này.
Ngoài xóm xa nhà họ ở, có chợ làng nằm
trên mấy con đường cái (xa lộ) xuyên qua các tỉnh (tiểu bang) xe cộ
chạy qua lại không ngớt. Chung quanh nhà họ, có trồng nhiều loại
hoa, như là: đỗ quyên, thược dược, bông bụp, huỳnh cúc, vạn thọ...
cùng các giống hồng bông to, thơm ngát vào sáng tinh sương, màu sắc
rực rỡ kiêu sa đài các.
Ngôi nhà này họ mua của một gia đình người
bản xứ sống ở đây lâu đời từ khi gia chủ còn thiếu niên với cha
mẹ... Bây giờ họ lớn tuổi rồi không canh tác được nữa, nên chủ nhà
bán rẻ lại, để vào sống trong chung cư không xa lắm của người già ở
ngoài chợ quận. Nhà được xây trên vuông đất rộng chừng bốn mẫu. Xứ
này nhà dù ở thành phố hay thôn quê cùng cốc đều phải đầy đủ tiện
nghi như: phòng ngủ, phòng ăn, phòng tắm, phòng gia đình, nhà bếp...
(đó là luật của sở kiều chánh). Bên ngoài nhìn vào người ta cứ tưởng
là cái nông trại nhỏ, chớ không nghĩ đó là nhà ở bình thường của
thôn dân.
Trong
nhà có ba người lớn, hai nam, một nữ trẻ nhứt cũng khoảng sáu mươi
hơn, còn hai người đàn ông tuổi đời cũng gần “thất thập cổ lai hy”
rồi. Cái tuổi mà ở xứ sở quê hương nghèo vì chiến tranh nối tiếp
chiến tranh triền miên, vì ngoại bang xâm lấn, vì cuộc nội chiến của
hai miền Nam Cộng Hòa và miền Bắc Cộng sản, thì họ thuộc về tuổi
thọ. Còn trên những xứ giàu tiền bạc, có thừa vật chất, tự do, tâm
hồn sẽ thoải mái ung dung như ở Âu, Mỹ... thì tuổi của họ cũng chưa
phải là già mà mới vào trung niên thôi. Người đàn ông trong nhà đó
là ông, vợ ông là Bùi Hoàng Lan mà láng giềng gọi theo tên chồng là
Nhân. Người đàn ông kia là anh ruột của bà Nhân, đó là ông Bùi Vĩnh
Bảo, trọng tuổi nhứt nhà.
Trên vuông đất, ngoài ngôi nhà ở giữa,
phía sau hè còn có cái chuồng nuôi bốn con chó mực cao lớn, thuộc
loại chó săn. Mặt mày chúng lúc nào trông cũng dữ dằn, như sắp cắn
xé đối phương trước mặt. Chúng đánh hơi lạ lanh lẹ, sủa giỏi chớ
không bạ đâu cắn phá đó, hoặc bạ đâu sủa đó, hay tru tréo cả ngày.
Đất nhà rộng mênh mông, nên họ nuôi nhiều loại gia súc khác như:
vịt, ngỗng, gà đi bộ (nuôi thả ăn lúa, bắp, côn trùng), gà lôi...
thường để lấy trứng, để ăn thịt chớ không có bán. Trong chuồng heo
còn có mấy con háo ăn, ú-na ú-nần kêu la eng éc tối ngày khi chúng
muốn ra hay đói.
Vợ chồng ông Nhân, và ông Bảo, cả ba người họ đều siêng năng trồng
thêm các loại rau thơm để ăn sống, cải, bầu, mướp, bí, khổ qua...
Gia đình họ ở miền Nam nước Mỹ, nên thời tiết dễ chịu không quá lạnh
như mùa đông ở Chicago, và cũng không nóng thái quá vào mùa hè như ở
vùng sa mạc Arizona... Họ còn trồng các loại cây ăn trái như cam,
bưởi, táo Mỹ (apple), xá lị, táo Tàu, hồng giòn, hồng mềm, ổi,
mận... Gầy giống các loại gia súc hoặc rau cải, cây ăn trái... bằng
cách là mua, đổi chác hay dân bản xứ trong vùng gần nhà cho. Nếu nói
chòm xóm ở gần, chớ thật ra chẳng gần chút nào, nhà này cách nhà kia
lái xe cũng phải mười lăm, hai mươi phút mới tới nơi.
Đến mùa cá lên, hai ông đi câu, đi bắt ở
dọc theo sông sau nhà. Cá bắt được lớp ăn tươi, lớp phơi khô hoặc
làm sạch sẽ giữ trong ngăn đá để dành ăn dài dài. Cho nên quanh năm
suốt tháng, vợ ông Nhân ít khi tốn nhiều tiền để mua cá, trứng gà,
trứng vịt, hay gà vịt... ở chợ, ở tiệm như những gia đình khác. Bà
Lan thỉnh thoảng đi chợ Tàu, chợ Phi (trong vùng chưa có chợ Việt)
mua gia dụng nấu ăn mà chợ Mỹ không có bán, hoặc hiếm thấy bán. Bà
mua đồ hàng nằm (những đồ giữ lâu ngày) như là nước mắm, tôm khô,
bún, hủ tíếu, mì, cải bắc thảo, tương, chao...
Ở đây gia đình họ ăn cá thịt tươi, còn tôm
thì đông lạnh từ vùng biển chở lên bán. Đi chợ bà hay mua thịt ba
chỉ để dành luộc làm gỏi cuốn, trộn gỏi khô... Thịt đùi để kho rệu
với trứng, với cá. Giò heo để hầm với măng, củ cải tươi, hoặc măng
khô, cải phơi khô...
Sau bữa cơm chiều hôm nay có canh hầm giò
heo với củ cải trắng, cá rô phi chiên sốt chua ngọt thêm rau cần,
hành lá và ngò. Thịt kho rệu, có trứng vịt và cá, món ăn này sẽ kèm
với dưa giá, cải làm dưa... Gỏi thì có trái su, dưa leo, củ cải đỏ,
củ cải trắng xắt mỏng trộn tôm, thịt ba rọi. Ngoài ra còn có bánh
tét, bánh ít... mà chiều hôm qua bà Lan gói còn anh và chồng ngồi
phụ ngồi cột dây.... cho đến nửa đêm mới nấu bốn năm giờ đến khi
trời gần sáng bánh mới chín vớt ra treo lủng lẳng trên sào ngoài
hiên nhà.
Gia
đình bà Lan có bữa ăn tươm tất, vì hôm nay là ngày cuối của năm, Ba
Mươi Tết Nguyên Đán. Bà nấu mâm cơm cúng rước ông bà chiều nay về
mừng năm mới với cháu con. Hàng ngày thì họ ăn uống đạm bạc nấu các
món cá, rau nhiều hơn thịt. Không phải không có tiền, hoặc tiếc
tiền, hay hà tiện không dám ăn, mà kiêng cữ vì tuổi tác, cơ thể yếu
ăn nhiều thịt thà dầu mỡ dễ sanh bịnh: đường cao, mỡ cao, áp huyết
cao... Cho nên để giữ gìn sức khỏe khi nấu nướng bà cũng tránh những
thức ăn có nhiều chất béo, ngọt quá, hoặc quá mặn... Họ còn mua máy
(treadmill) tập trong nhà, để phòng khi thời tiết nóng, lạnh, gió,
mưa không tiện đi bộ trên con đường mòn có cây cối rậm rạp, lá hoa
tươi thắm... vào mùa hè mát mẻ dọc theo bờ sông sau nhà, hay con
đường cho người đi bộ và xe đạp chạy gần lộ lớn. Tùy thời tiết có
khi sẽ tập trong nhà.
Bôn đào khỏi quê cha đất tổ đã mấy mươi
năm rồi, nhưng vào những ngày Tết, ngày kỵ cơm cha mẹ vợ ông Nhân
luôn nấu món này, món kia cúng bái như lúc chưa rời nước. Nhà thường
nhật chỉ có ba người, mà nấu ê hề các món ăn, vì bà luôn nghĩ biết
đâu bất chợt có thể tối nay, hoặc mai hai con bà, có đứa sẽ ghé qua,
hoặc cả hai anh em nó sẽ về thăm. Bỗng bà nhẹ thở dài, mắt đỏ, lòng
già cảm thấy hiu quanh nhớ thương con dâng trào.... Hai đứa con về
thăm cha mẹ không bao giờ có hẹn trước, mà chợt đi, chợt đến... bởi
trong hành trình nghề nghiệp luôn được bảo mật những việc làm của
chúng.
Cái hương
vị của chiều Ba Mươi Tết, cùng không khí đùm bọc thương yêu của vợ
chồng, anh em nương tựa sống chung mái nhà lúc tuổi về chiều ở xứ
người, khiến cho họ cảm thấy ấm cúng và càng thương yêu nhau hơn.
Ăn cơm chiều xong thì mặt trời đã lấp ló ở
dãy đồi sau nhà. Ông Nhân chồng bà Lan lúi húi đốt lò sưởi rồi ngồi
uống nước trà xem báo. Ông Bảo anh bà ngồi xem tin tức trong truyền
hình, còn bà Lan thì lục đục ở bếp thu dọn, chùi rửa chén bát, nồi
niêu... để úp vào kệ, vào tủ gọn gàng tươm tất cho nhà cửa sáng sủa
trong những ngày đầu năm mới...
Nơi bà Lan đứng rửa chén kế bên khung cửa
sổ lớn, nhìn thấy được con sông xanh xuôi chảy lững lờ, in đáy nước
những cụm mây vàng, trắng, tím, hường, lam loang loáng trên sóng
nước lã chã. Sóng vỗ theo chiều gió vi vu, đưa âm thanh lào xào của
cành lá cây hai bên bờ sông va chạm vào nhau. Ôi màu nắng chiều đẹp
rực rỡ, thắp sáng cả vùng toàn cây liên kiều (forsythia, họ gọi là
mai Mỹ) bên kia sông đã nở hoa vàng ối cả một cánh rừng thưa... như
huỳnh mai của quê hương xa lắc xa lơ của bà.
Cứ mỗi lần hoa liên kiều nhánh cành trụi
lá, và khi những nụ hoa chi chít xanh ngã vàng trên nhánh... thì bà
Nhân biết sắp đến Tết Nguyên Đán. Tuần trước đi chợ bà đã mua các
loại bánh mứt, nhang, đèn, trà, quả... để cúng ông bà trong ba ngày
Tết. Và cả ngày nay bà cũng luôn dõi mắt ra đường Cái... cố kiếm tìm
thấp thoáng bóng hình hai đứa con trai có về với gia đình trong đêm
trừ tịch không? Bà nhớ chúng về thăm ông bà đâu giữa năm, đến nay
cũng hơn sáu tháng rồi... vẫn chưa tin tức gì của chúng cả. Bà cảm
thấy nhớ thương con vắng nhà, chớ không buồn hay hối hận khi chúng
chọn cái nghề tiếp nối con đường, mà cha mẹ đã đi qua còn dang dở!
Bỗng bà Lan chép miệng thở dài lẩm bẩm một
mình:
- Mèn ơi,
mới đó mà đã mấy mươi năm, kể từ khi vợ chồng trốn chạy bỏ quê hương
xứ sở! Và trên quê người, sau những năm tháng dài bươn chải, vợ
chồng bà chọn được cái nhà vừa ý, để sống hưu trí ở làng quê bé nhỏ
êm đềm ít người lai vãng này. Thiệt cuộc đời bà như một truyện phim
dài, một cuốn tiểu thuyết dầy chưa có đoạn kết... Bởi có những sự
việc mình những tưởng nó biến mất trong tâm hồn theo thời gian, theo
năm tháng thăng trầm của dòng đời! Nhưng không, nó vẫn nằm yên trong
ký ức, để rồi chiều nay, dòng hồi tưởng mãnh liệt cuồn cuộn sống lại
trong lòng bà, như mới xảy ra mấy hôm trước đây thôi...
Năm đó Bé Bùi Hoàng Lan khoảng bốn tuổi,
vào đêm Ba Mươi Tết Nguyên Đán, trời tối đen như nhuộm mực Tàu.
Hoàng Lan ngon giấc ngủ nằm chèo queo nghiêng mình ôm gối nhỏ quay
lưng vào mẹ. Bỗng dưng bị những tiếng động mạnh khiến cô giựt mình
thức giấc! Nhưng nhà tối thui vì chiếc đèn ngủ lúc nào cũng máng
trên cây cột sau cửa buồng đà tắt ngấm tự bao giờ! Cô nghe tiếng sột
soạt, và nước chảy thấm ỉ ỉ... từ từ ướt cả lưng? Trong giấc ngủ
chưa tỉnh, chập chờn cô định gọi ba, nhưng bàn tay lạnh ngắt của mẹ
chụp kín vào miệng như ngầm bảo đừng lên tiếng...
Khi trời sáng, Hoàng Lan được vợ chú Sáu
làm vườn dắt ra sàn lẵng múc nước ở rạch lên tắm rửa, thay áo quần
sạch sẽ cho cô. Nhưng trên mình mẩy, ngón tay, ngón chân cô vẫn còn
nhiều chỗ máu dính khô cứng!
Nhà hôm nay đông người hơn mọi ngày... Có
những người Lan biết mặt như bác Bảy Tửng có ghe bán thuốc bắc bên
kia sông, ông Năm Sầu Riêng bán bánh kẹo ở nhà máy chà lúa, bà Sáu
thợ may áo dài, và vài người ở xóm trong, vài người lạ khác cô chưa
lần gặp?
Lan vẫn
nhớ, đó là ngày cuối cùng của năm, ngày Ba Mươi Tết Nguyên Đán! Đó
cũng là ngày cuối cùng cô được nhìn thấy mặt cha mẹ nằm trong cỗ
quan tài sơn đỏ, và khi chiếc nắp đóng lại với hai hàng bạch lạp
sáng lung linh! Cô dẫy dụa, khóc và thét gào khan cả cổ! Tuổi thơ
không hiểu nhiều... nhưng linh cảm cho biết cô sẽ không còn thấy cha
mẹ nữa... Bởi có những kẻ độc ác nào đó đêm qua nhẫn tâm đã giết
chết cha mẹ cô rồi!
Và kể từ hôm đó Hoàng Lan trở thành đứa bé
mồ côi! Cô không có dòng họ bên nội cũng như bên ngoại vì chưa lần
nào gặp hoặc nghe cha mẹ nhắc đến... Vì ba má cô là con một, mà ông
bà hai bên đã qua đời từ lâu. Chắc còn họ hàng ở đâu đó, nhưng cô
không thấy tới lui hay nghe cha mẹ kể về chú bác, cô dì hay cậu
mợ... thăm viếng bao giờ.
Hoàng Lan chỉ biết vợ chồng bác Lê Thành
Tài ở Sài Gòn là anh em kết nghĩa với ba má. Hai bác là người thân
duy nhứt mà năm nào vào ngày Tết hay ngày giỗ đều dắt con về thăm.
Có khi họ ở lại chơi năm mười bữa, hay nửa tháng với gia đình cô.
Mỗi lần đến thăm, hai bác luôn đem về sách
báo đặc biệt nhứt là báo xuân cho ba, và quà bánh, hàng vải cho mọi
người trong gia đình. Khi ở đây, bác trai đi vườn, thăm ruộng với
ba. Mẹ và bác gái thì quấn quít bên nhau, hai bà nội trợ thường trổ
tài nấu nướng các món, cho hai gia đình có những bữa ăn ngon. Họ đổ
bánh xèo nhân tôm, thịt gà bằm nhuyễn, có củ sắn xắt dài như cộng
giá. Cà nhà dùng đọt điều, lá cách non, đọt bằng lăng, hay cải bẹ
xanh... đựng trong cái rổ đan bằng tre có rau húng cây, húng lủi,
rau cần dầy lá, ngò rí, dắp cá, tía tô... Nhìn rổ rau xanh non nhẵn
tươi hơn hớn, bác Tài gái mỉm cười, khen: “...rổ rau xanh tươi phơi
phới như cả mùa xuân...” rau cuốn với bánh xèo, chấm với nước mắm
chua ngọt và dầm ớt cay cay... Người miền Nam ưa thích lắm...
Trên mâm cơm, thường thì ba và bác trai
khề khà chung rượu trắng, còn má và bác gái vừa cuốn bánh cho Lan,
cho anh Nhân (con trai của hai bác) cùng những món ngon khác... Họ
ăn uống nói cười thật vui vẻ và lúc nào cũng thân tình đối xử với
nhau như anh chị em ruột thịt...
Mấy người lớn luôn kể lại, nhắc lại những
câu chuyện ngày xưa vui vẻ và ai nấy cùng cười ngặt nghẽo. Khi nhắc
đến những chuyện buồn thì mẹ và bác gái rướm nước mắt, còn bác trai
và ba của Lan thở dài có vẻ bùi ngùi, đôi khi như ngao ngán lắm...
Mấy người lớn còn to nhỏ chuyện trò, cười
nói, thì anh Lê Thành Nhân con trai bác cùng với Bùi Hoàng Lan đi
bắt dế, bắt chim hay thả diều với lũ trẻ hàng xóm gần chùa Phật kế
bên nhà ở trong làng. Anh thường cõng Lan nhảy qua những mương cạn
nước cỏ mọc um tùm vì Lan sợ kiến, sợ chuột, sợ rắn... không dám đi
qua. Anh cũng đi bắt cào cào, và hái trái chín hoặc nhổ cỏ đuôi chồn
thắt hình con chó, con cào cào... cho, Lan thích lắm.
Ngày ba má Hoàng Lan qua đời! Chú Sáu làm
vườn lật đật đi Sài Gòn báo tin cho vợ chồng bác Lê Thành Tài hay.
Họ bươn bả xuống lo chôn cất cha mẹ của Hoàng Lan trong lặng lẽ! Sau
lễ tang cha mẹ, cô cũng rời xa nơi chôn nhau cắt rún về sống với gia
đình Bác Tài!
Ông
Tài làm thư ký bên Tòa Hành Chánh Gia Định. Bà Tài làm giáo viên dạy
ở trường Tiểu học Phan Đình Phùng. Nhà họ ở đường Nguyễn Thiện
Thuật, nên không xa sở làm của ông bà. Hai bác sống đời công chức
bình đạm, bác Tài gái là một phụ nữ đức hạnh, mô phạm, bác Tài trai
hiền lành đạo đức, không so đo hoặc tranh giành với ai... Nên gia
đình ông bà có đời sống rất là an vui, và hạnh phúc. Vợ chồng ông
chỉ có người con trai độc nhứt là Lê Thành Nhân lớn hơn Hoàng Lan
bốn tuổi.
Nhà ít
người, vợ chồng ông Tài không nhiều con cái. Hoàng Lan con của bạn
chí thân, nay gặp cảnh tang thương để con bé trở thành mồ côi không
nơi nương tựa, nên ông bà đem về dưỡng nuôi xem như con ruột của
mình. Để tiện việc học hành, và sớm nhạt nhòa nỗi đau thương của đứa
bé, ông bà Tài đã đứng ra làm thế vì khai sanh cho Hoàng Lan. Kể từ
đó cô có cái tên mới là Lê Hoàng Lan Chi (họ của bác Tài).
Lê Thành Nhân con trai của ông bà đang học
lớp Đệ lục ở trường Trung học Trương Vĩnh Ký, còn Lan Chi mới học
lớp hai trường của bà Tài đang dạy. Vì thế hàng ngày Lan Chi lẽo đẽo
bên mẹ (bác Tài gái) hai buổi đến trường.
Dù sống đầy đủ về vật chất và tình thương
bên cha mẹ nuôi, nhưng những đêm trở giấc, Lan Chi không làm sao
khỏi thầm rơi lệ nhớ lại những ngày tháng bên cha mẹ ruột sống an
bình ở làng quê! Cô nhớ mẹ mình có mái tóc đen, thật dài gần chấm
đất. Bà thường gội đầu bằng lá liễu nấu với tro bếp lóng lấy nước
trong để nguội. Cứ mỗi lần gội đầu cho mẹ, thì mẹ gội đầu cho con.
Mẹ cô thường bảo:
- Chải đầu khi tóc còn ướt thì dễ và ít bị
đứt, bị rụng.
Khi
ngồi chải tóc cho con, mẹ hay thỏ thẻ rằng:
- Bé Hoàng Lan của mẹ da trắng mịn như lụa
tơ tằm. Mặt mày sáng sủa thanh tú giống bà nội. Bởi con giống ba, mà
ba con thì giống bà nội đó mà! Con có tóc mây giống mẹ vừa đen vừa
nhiều... Bé Lan của mẹ sau này trổ mã sẽ là một cô gái xinh đẹp. Con
được sinh ra trong gia đình này... thật cảm ơn Trời cao đã ban cho
cha mẹ niềm vui, niềm hạnh phúc vô cùng to lớn... sau ngày anh con
rời nhà, để cha mẹ khắc khoải nhớ thương và chờ mong trong tuyệt
vọng!
Rồi mẹ trìu
mến hôn lên tóc Lan. Ba cô thì luôn bận rộn coi sóc và làm với thợ
thầy nhứt là đến mùa lúa, mùa trái cây, mùa khoai, mùa đậu, mùa
cà... Quanh năm suốt tháng ít khi rảnh tay, bởi ông siêng năng cần
mẫn lo vườn ruộng, giữ gìn đất vườn mấy đời của ông cha để lại. Dù
ông Bùi Đình Đạm (ba của Hoàng Lan) sinh ra và lớn trong gia đình
khá giả, riêng ông và bà thuở chưa lấy nhau có ăn học sống ở thị
thành... Nhưng vợ chồng ông thích nếp sống bình dị ở thôn quê, là
những người hiền lành luôn đối xử tốt với kẻ ăn người ở làm việc
sanh lợi cho mình.
Hoàng Lan là đứa con gái độc nhứt của ông
bà. Dĩ nhiên là cô luôn được cha mẹ cưng chiều. Và ông cũng luôn
nhắc nhở vợ để ý, dạy dỗ con trong việc học hành:
- Má nó thấy con Hoàng Lan tháng này học
hành có khá không? Tuần rồi gặp cô giáo của con, anh có hỏi thăm thì
cô bảo con mình yếu toán. Ngày xưa khi còn đi học, anh nhớ em là con
gái mà giỏi toán nhứt lớp. Vậy em hãy dạy kèm toán cho con đi...
Bà Đạm mỉm cười nhìn chồng để lộ chiếc
răng khểnh thật có duyên. Rồi xoay qua nói với con gái mình, nhưng
cố tình chọc ghẹo chồng:
- Bé Lan có biết không? Ba con ngày xưa đi
học mà lười biếng không chịu nổi.. Ổng chỉ vào lớp mới học bài, mới
làm bài, dù thông minh nhưng vì gấp rút thì dễ bị sai... Cho nên ba
con thường bị hai cái hột vịt, và cuối tháng nào cũng đội sổ bìa đen
(hạng chót).
Nói
đến đây, mẹ liếc ba rồi cười chúm chím tiếp:
- Ba con chỉ giỏi có làm luận văn và viết
thư... thôi.
Ông
Đạm cười hề hề:
-
Nhờ thế mà ba mới cưới được má con...
Thật sự lúc ấy Hoàng Lan khờ tịt với
chuyện kể của hai người! Nay nhớ lại, ngày đó đã qua quá lâu rồi,
mọi sự việc đã đổi thay, giờ đây cô thân cút côi sống với dưỡng phụ
và dưỡng mẫu. Nhưng Hoàng Lan có cảm tưởng như lúc nào cha mẹ cũng
đang lẩn quẩn đâu đây, rất gần... khiến cô không sao dễ dàng quên đi
lúc sống chung với cha mẹ mình.
Cô vẫn nhớ và không sao quên được ngày đó
lúc ba mẹ còn sinh thời, có lần đi học về gặp cơn mưa lớn, nước sông
dâng lên ngập đường ngập sá, cô chạy theo chúng bạn lượm xoài ở vườn
ông Cả Tám.... Ôi xoài non, xoài cứng... rụng lềnh khênh đầy đất, và
dưới mương cạn lé đé nước... có từng chùm trái còn nguyên, có trái
bị bể tung nằm trên bờ phơi ruột trắng... Trong khi trời đang gầm
gừ, giông gió thổi mạnh, làm cây cối quằn quại ngã nghiêng... những
tia chớp sáng chóa mắt, rồi những tiếng sét nổ ầm ầm như long trời
lở đất, gò nỗng cũng muốn bay đi.
Tan trường đã lâu, trời bị mây đen che phủ
tối mờ mịt. Ba má cô sốt ruột mong ngóng, nhưng con gái đi học vẫn
chưa về. Sợ con té sông, té rạch nên ông cùng người ăn kẻ ở trong
nhà xách nón, mang áo mưa, đốt đuốc đỏ trời chạy bổ đi tìm khắp
nơi... Sau khi tìm được con, cha cô nổi giận lôi đình, đánh cho một
trận đòn nên thân.
Ông còn hầm hét:
- Ở nhà trái cây tươi ngon thiếu gì không
ăn, tan trường con không về nhà, mà chạy theo lũ bạn đi lượm xoài
đầy cặp, đầy túi áo, để cả nhà lo sợ...
Bị cha đánh đau quá, Hoàng Lan thiệt giận
và ghét cha mình lắm. Cô định bụng là từ nay không thèm ngó mặt ông
nữa!
Nhưng hôm
sau, trời còn lờ mờ sáng. Cô đang nằm trong mùng nghe tiếng cha thì
thầm với mẹ. Bởi mọi khi sáng sớm cha cô đã đi ruộng chiều tối mới
về đến nhà. Không biết tại sao hôm nay ông đi ruộng lại trở về nhà
sớm như vậy? Bỗng nghe cha cô bảo với mẹ:
- Hoàng Lan chưa thức hả? Mùa nước năm nay
lớn quá, nước tràn ào ào qua bờ mẫu, anh bắt được mớ cá nhảy ngược
và mấy con cua kình càng (loại cua đồng có hai càng lớn, màu tím
sậm, ngọt thịt) còn sống vội đem về đây, Hoàng Lan ưa cua này lắm,
chút nữa con thức dậy, em nướng cho con ăn nghe. Tội nghiệp, hôm qua
nóng nảy anh đã đánh con nhiều chắc là đau lắm! Anh thiệt hối hận,
em nhớ pha nước muối xức mấy vết roi cho con, thôi anh trở ra ruộng
đây!
Cơn hờn giận
tan biến, Hoàng Lan nhảy xuống giường, phóng đến ôm chầm lấy cha
khóc nức nở!
Ngày
đó cách nay đã mấy mươi năm rồi! Giờ đây Hoàng Lan cũng là Lan Chi
đã thành thiếu nữ duyên dáng dễ nhìn. Bề ngoài cô mềm mại yểu điệu
như liễu, như mai, nhưng tâm hồn cuồn cuộn nhiệt tình, mạnh dạn như
cây tùng, cây bá. Cô còn có tánh nhẫn nại, cương quyết và chắc tâm
chẳng kém nam giới.
Cha mẹ nuôi của cô đã ở lứa tuổi ngoài năm
mươi. Họ có cuộc sống an vui đề huề bên hai con. Trước đó, Lan Chi
nghĩ rằng đậu phần hai, anh Nhân chắc sẽ theo học về Hành chánh,
hoặc Sư phạm để nối nghiệp cha mẹ mới đúng. Nhưng khi xong Tú tài
hai thì anh tình nguyện vào trường Võ bị Đà Lạt. Sau những năm tháng
thụ huấn quân sự, huấn luyện ngành chuyên môn ở trong nước “Quân
trường đổ mồ hôi/Chiến trường bớt đổ máu...” anh còn được ra tu
nghiệp ở xứ người...
Khi trở về nước, Lê Thành Nhân như con đại
bàng có đôi cánh sắt, bay lượn trên bầu trời cao rộng muôn hồng ngàn
tía của quê Nam tươi đẹp gấm vóc. Anh như cá gặp nước như rồng gặp
mây, xông xáo bôn ba trên Bốn Vùng Chiến Thuật. Trong các vùng giới
tuyến, khắp các ải địa đầu từ Nam ra tận miền Bắc giáp biên giới
Việt-Hoa! Toán quân anh đã âm thầm thao túng trong lòng đất địch như
chỗ không người, như vùng trời tự do quen thuộc của miền Nam...
Riêng Lan Chi, cái chết tức tưởi không lý
do minh bạch của cha mẹ luôn nằm trong tâm tưởng, và nung đúc đốt
cháy tâm hồn tuổi thơ dại của cô cho đến trưởng thành... nên cô đã
âm thầm quyết chọn cho mình cái nghề, mà thuở đó ít có phụ nữ để ý
đến! Yến Tử là bí danh trong “Biệt Đội Thiên Nga” của Lan Chi. Hôm
nay cô đang ngồi hỏi cung kẻ địch vừa ra đầu thú mười ngày trước
đây! Nhiệm vụ mà cô đã được thượng cấp giao phó cho.
Nghiêm giọng, cô bảo:
- Anh tên là gì, bao nhiêu tuổi? Cha mẹ,
quê quán ở đâu và có bao nhiêu anh chị em? Hãy nên khai thật, và
khai rõ để chúng tôi có thể giúp anh một cách hữu hiệu hơn...
Người đàn ông ăn mặc xốc xếch, lem luốc
cát bụi, có làn da trắng xanh, cánh tay bị thương còn treo trên
chiếc khăn xếp xéo máng trên cổ. Thân hình gầy gò tiều tụy, nhưng
nét mặt ông ta trầm tĩnh cương quyết, cao ngạo, giọng nói cứng chắc.
Mắt là cửa sổ của linh hồn... cho nên ông không sao giấu được nỗi u
hoài hiu hắt... ẩn hiện trong đôi mắt đó.
Kinh nghiệm và trực giác đã cho cô biết
rằng. Hắn ta không phải là một người bình thường như là một tên để
sai vặt, để liên lạc hoặc làm những việc bình thường khác... Tướng
mạo đó, ánh mắt đó ngầm cho cô biết hắn phải là một cán bộ đã đạt
được nhiều thành quả, hoặc là một cấp chỉ huy...
Ông ta đang ngồi đối diện với Yến Tử trong
căn phòng nhỏ đơn sơ. Nhưng đã được trang bị những chiếc máy tinh vi
thu hình, thu tiếng nói... Sẽ chiếu ra, phát ra và truyền đi qua
phòng khác tất cả những hành động và lời đối đáp của cả hai người.
Cô nghĩ, hắn ta là người từng trải, nên cũng đã thừa biết việc
này...
Đối diện
với một phụ nữ trẻ tuổi có đôi mắt trong sáng, lanh lợi, cái miệng
nhỏ rất duyên dáng ở nụ cười. Ông ta không nói gì, nhưng cũng thầm
đoán được ít nhiều về người đối diện. Nhìn sâu vào mắt cô, ông trầm
tĩnh, rồi mím môi trả lời:
- Thưa cô, tôi đã ra đầu thú, thì không
còn có lý do gì phải giấu giếm nữa mà không khai thật. Tôi đã khai
tất cả theo mọi câu hỏi trong giấy tờ bao nhiêu lần, và gần như mỗi
ngày...
- Tôi
biết! Nhưng tôi muốn chính miệng ông nói ra trước mặt tôi!
Ông ta hơi khựng! Bởi người phụ nữ có vẻ
yếu đuối nhưng giọng nói và đôi mắt hết sức sắc bén! Ông ôn tồn bảo:
- Cô muốn biết phần nào trước, thì xin
hỏi. Tôi sẽ thành thật trả lời tất cả những gì tôi có và tôi biết...
Yến Tử vờ như sửa lại cổ áo, nhưng thật ra
cô đã nhanh tay bấm mở chiếc nút của máy thu âm và thu hình nhỏ đã
gắn trên đó:
-
Được, Sáu Trường Sơn là bí danh của ông phải không? Ông tên thật là
gì, quê quán ở đâu...
Mặt Yến Tử đang hỏi cung nhưng có vẻ đăm
chiêu suy nghĩ khi nghe tên đảng viên Việt cộng ra chiêu hồi, mà
thượng cấp vừa gởi đến để cô lấy khẩu cung. Người này từ miền Bắc
về, đang ngồi trước mặt cô khai thân thế của mình... Đã mấy lần như
dợm hỏi nhưng lại thôi, cô nghĩ để sau này tìm hiểu rõ hơn hẳn hay,
không gấp gáp gì!
Nhân viên ngồi làm việc bên trong đang
theo dõi từng cử chỉ của hai người, họ hết sức lấy làm lạ, nhứt là
xếp của cô? Ông nghĩ, đây đâu phải lần đầu tiên cô tiếp xúc với
những tên cán bộ Việt Cộng chiêu hồi có tầm vóc như hắn? Yến Tử là
nhân viên của Cục Tình báo giỏi nhất, đã mấy năm kinh nghiệm... và
đang giữ trọng trách trong công việc này! Cô ta là người luôn hoàn
thành nhiệm vụ của mình ngoài dự tính của cấp trên, cả trong những
lần địch cài người phản gián cũng không thoát được cô...
Tên Sáu Trường Sơn này bị toán Thám kích
của A3 bắn gãy tay từ giữa tháng rồi. Hắn ta ra chiêu hồi, đang giữ
trong biệt khu được bảo vệ an toàn và bảo mật. Trong trung tâm đều
biết trong lúc A3 cùng đồng đội theo dõi địch quân trên đường từ Bù
Đớp di chuyển về miền Thủ Thừa mà cả tháng nay bám sát để bắt sống.
Và họ cố tình chừa một kẽ hở cho kẻ địch ra đầu thú! Hai bên trải
qua trận ác chiến dữ dội một mất một còn. Những tay mơ nằm vùng đã
bị hốt trọn ổ cùng với hai tên khác (từ miền Bắc vào) ba tên bị bắn
chết. Còn tên cáo già Trường Sơn này có lẽ cùng đường đưa tay xin
chiêu hồi, thì bị đàn em của A3 bắn gãy tay.
Kẻ bắn tên Sáu Trường Sơn đưa tay lên
chào, rồi nghiêm chỉnh báo cáo trước mặt thượng cấp:
- Thưa Thượng cấp những con cá câu bắt
được phải chặt kỹ, chặt vây hoặc đập đầu. Để chúng nguyên vẹn lành
mạnh nếu lỡ tay sẽ sẩy mất! Em chưa thịt nó để trả thù cho đồng đội
là nó may mắn lắm rồi.... Thưa thượng cấp, em xin chịu xử phạt theo
quân kỷ...
Lạnh
lùng lầm lì nhìn đàn em, người chỉ huy lùng bùng trong cổ họng:
- Không thi hành đúng chỉ thị của thượng
cấp mà còn ngụy biện? Anh hãy xuống làm việc với ban Hai đi (ban an
ninh)...
Cuộc
chiến quốc Cộng mỗi ngày càng sôi động gay go. Thanh niên tình
nguyện tòng quân diệt giặc. Quân nhân trừ bị ở các ngành nghề, về
hành chánh cũng được gọi tái ngũ...
Trong thời chiến chinh, sinh mạng của quân
nhân thật mong manh! Nhưng người người vẫn tiếp nối đi làm phận sự
và nghĩa vụ của mình. “Đất nước lâm nguy/ Thất phu hữu trách.” Họ có
nại hà chi những trận đánh lẻ tẻ, hay trận đánh lớn... Biết bao
nhiêu chiến sĩ miền Nam đã hy sinh vì bảo vệ gia đình và lãnh thổ!
Còn giặc thì bất chấp mọi thủ đoạn, pháo kích vào thành phố, trường
học, đặt mìn giật sập cầu, đào đường sá... Gây tóc tang thương vong
[cho]
không biết bao nhiêu người dân vô tội!
Rồi cũng vào chiều ngày Ba Mươi Tết năm
đó, Yến Tử đang ngồi bực tức thở dài! Bởi việc khai thác lấy khẩu
cung tên cán bộ Việt Cộng Sáu Trường Sơn chưa xong, thì nay cô lại
được lệnh điều đi làm công việc khác!
Công tác của cô lần này là giúp cho chiến
hữu A3 (bí danh thượng cấp của cô) đang bị thương nặng! Mà cô có
nhiệm vụ phải lo và giữ an ninh cho A3. Cô bực bội, tức tối tự hỏi:
“Tại sao cấp trên cắt đặt cho cô làm một chuyện không phải là chuyên
nghiệp của mình? Trong quá trình công tác cấp trên giao cho, lúc nào
cô cũng thi hành suông sẻ, chưa vấp phải điều gì sai trái hay tắc
trách! Cô cũng đâu phải là bác sĩ, không phải là y tá, không phải là
trợ tá... thì cô biết gì để săn sóc một thương binh mà giao cho cô
nhiệm vụ vô duyên này?”
Cô lật đật đi tìm xếp để hỏi cho rõ nguyên
nhân? Nhưng đến nơi thì thư ký bảo là thượng cấp đã đi công tác! Yến
Tử hết sức bực mình, lòng buồn bã trở lại phòng làm việc... bởi dù
muốn dù không, cô cũng phải thu xếp mọi giấy tờ cần thiết để bàn
giao cho người khác!
Bàn giao xong mọi việc, Yến Tử uể oải ra
về! Cô lầm bầm lén rủa: “Thiệt tình, ngày mai mình sẽ đi nuôi ông
thần thừ A3 trời đánh thánh đâm nào đây?” Tức mình, cô cũng không
thèm thắc mắc hỏi thăm kẻ đó là ai, có mặt tròn mặt méo ra sao?
Nhưng cho dù cô có hỏi cũng không ai biết, và dù có biết chắc chắn
họ cũng không nói với cô! Đã bao năm rồi, từ ngày làm tình báo, cô
chỉ nhận việc qua giấy tờ, hoặc mật mã truyền đạt qua một người khác
rồi thi hành!
Trong lòng Yến Tử đang ấm ức và không phục đây nè! Vì sự bất ngờ
thay đổi việc làm chưa xong này. Cô chép miệng thở dài thườn thượt,
nhưng đành phải chịu thôi, mình chỉ còn có nước là thi hành lệnh
trên chớ biết làm sao bây giờ!
Đã mấy năm lăn lộn trong nghề, có khi Yến
Tử công tác ở những nơi phồn hoa đô hội, khi thì trà trộn trong đám
dân bụi đời theo đám ăn chơi như phòng trà, vũ trường, khi ở các
quán rượu (bar) của Mỹ và Việt. Khi cô theo toán quân lên vùng cao
nguyên, khi làm thường dân bán buôn trong vùng quê hẻo lánh xa làng,
xa chợ... Nguy hiểm và gian nan bao phủ trùng trùng, nhưng cô không
lùi bước không đắn đo. Vì con đường này cô đã chọn, nên không chút
do dự hay ngại ngùng, cứ hướng về phía trước mà thi hành, mà tiến
tới...
Quê Nam
nơi nào cũng cây xanh lá thắm, hiền hòa êm đềm tươi đẹp. Cận vùng
Đồng Tháp Mười cô đã đi qua bao nhiêu ruộng lúa chín sai hột, oằn
bông, vàng cả cánh đồng bao la bát ngát không thấy đâu là bờ mẫu,
đâu là ranh. Đồng Tháp thưa thớt dân cư, nhưng nhiều ruộng nương,
kinh rạch, ao, đìa... Nguồn tôm cá thủy sản trời cho không làm sao
hết được. Cá nhiều đến nỗi dùng cái chén cô cũng có thể vớt được
những con cá sặc bướm hám ăn, lúc ngồi rửa chén ở cầu ao.
Yến Tử theo cha mẹ nuôi sống ở thành thị
đã hơn 20 năm rồi. Nhưng miền quê nơi chôn nhau cắt rún đầy ấp ngọt
ngào tuổi thơ bên cha mẹ vẫn còn rõ nét trong trí nhớ. Cô luôn thầm
mơ ngày nào quê hương tàn bóng giặc, sẽ trở về sống đời còn lại bên
miếng vườn nhỏ của ông cha để lại cho cháu con, để gần gũi bên mồ mả
mẹ cha. Đôi lúc cô nghĩ rằng: Chắc tròn đời kiếp này mình sẽ không
thương yêu ai ngoài hai đấng sanh thành, cùng anh và cha mẹ nuôi!
Nghĩ vẩn nghĩ vơ, khi ra khỏi nhiệm sở thì
phố xá đã lên đèn. Sài Gòn bao giờ cũng “ngựa xe như nước, áo quần
như nêm”. Và vầng trăng lưỡi liềm nằm vắt vẻo trên nền trời tối đen,
xa xa lấm tấm chi chít những giề sao. Nhưng trăng non và sao li ti
trên cõi trời tối đó, không thể nào làm mờ nhạt ánh đèn điện muôn
màu rực rỡ, lấp lánh của Sài Thành hoa lệ mệnh danh là “Hòn Ngọc
Viễn Đông”.
Cô
thong thả đi bên lề đường gần khu chợ Bến Thành, và qua ngang công
viên Quách Thị Trang. Theo phố sá dọc ngang hai bên đường là những
hàng quán buôn bán sầm uất quanh năm, từ sáng sớm cho đến giờ giới
nghiêm. Trên các cửa tiệm này là những căn lầu cao bốn năm tầng,
được chủ ngăn chia làm nhiều phòng cho Mỹ mướn. Đây là một trong
những khu phố về đêm ồn ào và nhiều màu sắc nhứt của Sài Gòn.
Nhìn các hàng quán bán nhiều các món ăn,
phải bình thường thì cô ghé qua ăn xong rồi về tắm rửa leo lên
giường tìm giấc ngủ bình yên, trong những khi không muốn ăn cơm nhà.
Nhưng hôm nay gặp bực bội đã no rồi, còn ăn gì được nữa mà ăn! Yến
Tử nhớ đến ba má ở nhà, cô ghé hàng bán chè, bánh quen thuộc thường
mua. Ông bà không sanh ra cô, nhưng đã nuôi nấng hoạn dưỡng và
thương yêu cô như cha mẹ ruột của mình, không hề câu nệ hay có những
lời lẽ nghi kỵ con ruột, con nuôi.
Cô dừng lại mua mỗi thứ hai, ba phần, nào
là chè khoai môn chan nước cốt dừa, bánh da lợn, bánh khoai mì
nướng, khoai nấu, chuối bao nếp nướng, chuối chiên... Để khi buồn
miệng ông bà có mà ăn liền.
Nghe tiếng chuông, nhìn ra cửa thấy con về
đến, bà Tài vui vẻ bước ra đon đả hỏi:
- Sao hôm nay con về sớm vậy? Chắc chưa ăn
gì phải không, thôi hãy vào ăn cơm luôn đi, mẹ đã nấu xong rồi.
Lan Chi bước vào cửa, chào mẹ, chào cha:
- Thưa ba con về rồi.
Ông Tài ở nhà sau đi lên thấy con:
- Mấy thuở con về đúng giờ cơm. Mẹ nó lấy
thêm chén đũa con ăn luôn cho vui.
Ông chợt nhẹ giọng, rồi quay sang vợ:
- Từ ngày anh em bây ra trường đi làm đến
nay. Gia đình bốn người mình ít khi có dịp được ngồi chung ăn cơm
chiều như thuở các con còn đi học. Cái thằng Nhân cả tháng rồi ba
cũng không thấy mặt mũi nó? Đi công tác ở đâu mà lâu quá vậy? Ờ, bà
à con có nói với bà là đi đâu, và chừng nào về không?
Bà Tài vừa bới cơm vào chén, vừa nhìn
chồng cười:
-
Thằng con đi công tác đây đâu phải lần đầu mà ông lo. Nó là con trai
mà lo làm chi cho mệt...
- Con trai hay con gái gì cũng vậy! Cha mẹ
lo cho con là bổn phận là thiên chức mà. Tui cũng biết nam nhi chí
tại bốn phương...
Bỗng ông dừng lại, rồi bảo:
- Mà này, con đã lớn rồi bà có nhắm chỗ
nào để cưới vợ cho nó chưa? Con gái bà giáo Hào trông cũng xinh lắm.
Hay con gái út của anh Thẩm phán Trung? Con nhỏ vừa xong Cán sự điều
dưỡng, đang làm ở bệnh viện Hồng Bàng ngoài Chợ Lớn đó... Con cái
lớn phải dựng vợ gả chồng chớ, để nó lông bông hoài không tốt đâu
đó...
Bà Tài cười
tươi, nhưng cũng nói:
- Bộ tui không sốt ruột sao! Tui thật sự
muốn cưới vợ cho nó lắm. Nhưng mỗi lần nhắc đến chuyện vợ con, thì
nó lắc đầu quầy quậy như đỉa gặp vôi. Thiệt là bực mình hết sức, lần
này về nhứt định tôi bắt nó phải lấy vợ mới được...
Rồi bà mỉm cười, nhìn qua Lan Chi:
- Còn con gái của mẹ, chừng nào mới chịu
lấy chồng đây? Con đã hăm mấy tuổi rồi nghen. Phải tính chuyện hôn
nhơn đi con, nhớ lúc còn đi học thì anh em bây nói chưa có sự
nghiệp. Nay đã có công ăn việc làm vững chắc rồi, thì phải nghĩ đến
chuyện chồng con đi chớ, kẻo trễ thì lỡ thời đó con.
Lòng thương yêu lo lắng của cha mẹ, Lan
Chi cảm thấy ấm lòng và cảm động, nhưng cô bảo:
- Phải có người chịu thương con mới được
chớ ba mẹ. Nhưng thật lòng hiện nay con chưa nghĩ hay có ý muốn lập
gia đình. Sống với ba mẹ như vậy là hạnh phúc nhứt đời rồi, còn có
gia đình riêng chi cho thêm mệt!
Ông Tài đưa chén cho vợ bới thêm cơm, cười
nói:
- Ba mẹ thèm
ẵm cháu lắm, hai anh em bây cũng đã lớn. Thằng Nhân Tết này cũng
ngoài ba mươi chớ còn nhỏ nhích gì nữa. Còn con thì cũng đã đến tuổi
lập gia đình rồi. Nếu không thích mai mối, vậy thì có quen với ai cứ
nói, để ba má tìm hiểu gia đình người ta mà gả con.
Lan Chi nhỏ nhẹ, bẽn lẽn cúi mặt:
- Cảm ơn ba mẹ lo, con hứa nếu quen với ai
sẽ báo cho ba mẹ biết.
Ăn cơm xong, Lan Chi phụ mẹ rửa chén bát
rồi đi tắm. Dòng nước trong mát từ chiếc đuốt chảy ra, làm cô cảm
thấy dễ chịu vô cùng. Cộng vào lòng thương yêu sự lo lắng chân tình
của ông bà Tài đã khiến cho cô không còn khó chịu khi nghĩ đến sáng
ngày mai phải đi săn sóc một kẻ “Vô duyên không tiền thưởng/Không
lạp xưởng mà cho...” nào đó bị thương! Nghĩ đến đây cô bật cười
thành tiếng, và cảm thấy thỏa thích hả hê cho những ý nghĩ rủa xả
chí lý dễ thương của mình!
Yến Tử đến trình giấy tờ cá nhân và giấy
giới thiệu của cấp trên cho ban an ninh biết lý do và thời gian mình
ra vào ở khu dành cho bịnh nhân đặc biệt này! Nhân viên trực cho
biết, A3 vừa xong ca mổ cắt bỏ chân trái từ ống quyển trở xuống.
Bịnh nhân còn nằm trong phòng giải phẫu để theo dõi. Phải chờ hai
giờ sau mới chuyển đến phòng hồi sinh.
Cô thở dài, nghe nao lòng khi nghĩ đến
chắc là anh ta bị thương nặng lắm! Nhưng bỏ đi, vì hơi sức đâu cô lo
chuyện người dưng, chỉ cần tròn bổn phận cấp trên giao phó là đủ
rồi. Nhìn đồng hồ tay cô thở ra, giờ thì chỉ có nước ngồi đây chờ
đợi thôi.
Lan Chi
định thần, cảm thấy mình mẩy toát mồ hôi lạnh, khi nhìn rõ bịnh nhân
cô phải chăm sóc và giữ an ninh! Trời ơi, nếu không biết anh ta thì
khi đến đây thấy người nằm mê, chỉ còn hơi thở thoi thóp là A3 cô
phải chăm sóc. Đó là bí danh của anh chớ ngoài ra không biết gì nữa
hết!
Vì bí mật
của nghề nghiệp bắt buộc như thế! Không ai biết ai, có khi ngồi gần
bên nhau, làm việc với nhau hằng mấy năm trời nhưng sự bảo mật, họ
không bao giờ biết người đó là có bí danh đó, có công tác đó... nhứt
là những công việc riêng tư của mỗi người.
Tâm hồn Yến Tử bấn loạn! Hai tay cô đeo
cứng thành giường bịnh, cho khỏi ngã qụy! Đã hơn ba năm, phải đã
ngoài ba năm từ ngày về nhận việc anh là thượng cấp, mà cô không hề
hay biết gì hết! Cô cảm thấy tâm tư xác xao, mỏi mệt, và cơ thể rã
rời! Còn anh (A3) nằm đó bất động, mắt nhắm nghiền, mặt tái xanh như
xác chết! Trên người anh chằng chịt nào ống dẫn nước tiểu, ống vô
nước biển, ống chuyền máu... toát mồ hôi, châu thân như rã rời... và
nỗi lo sợ khiến cô muốn ngất xỉu!
Yến Tử giựt mình kéo nhẹ tay áo để xem
đồng hồ, cô mới biết mình đã dựa đầu vào thành giường thiếp đi gần
mười lăm phút. Dù bước chân chim của y tá lanh lẹ, lăng xăng nhẹ
nhàng vào theo dõi bịnh nhân... nhưng cũng đã làm cho cô tỉnh giấc
ngủ không thoải mái!
Bỗng cô thấy bịnh nhân chớp đôi mi mắt mấp
máy, lờ đờ, vô hồn... Yến Tử nắm chặt tay, và kề miệng mình sát bên
tai anh, khẽ hỏi:
- Anh đã tỉnh rồi! Anh đã tỉnh rồi phải
không? Em là Lan Chi đây... Lan Chi đây, anh có nghe em nói không?
Anh ta không trả lời, mắt chậm chạp khép
lại trong bóng đèn ngủ tỏa ánh sáng mờ ảo mắc trên tường. Yến Tử
hoảng hồn bấm chuông... y tá và bác sĩ chạy tới. Họ xem xét, chẩn
mạch, anh mệt nhọc thì thào trả lời bác sĩ, cô cố ý lắng nghe, nhưng
không nghe được. Rồi anh nhắm mắt lại.
Bác sĩ quay sang cô, bảo:
- Xin cô đừng lo, ông ấy đang còn say
thuốc ngủ, dần dần khỏe lại và sẽ bình phục. Ổng đã mất hết một chân
cô có biết không? Xin lỗi, chúng tôi đã hết sức cố gắng để giữ lại.
Nhưng xương giập nát nhiều đoạn nên không giữ được... Chờ vết thương
lành hẳn, chúng tôi sẽ gởi qua trung tâm chỉnh hình làm chân giả cho
ông. Nếu có thể, xin cô nói để người nhà chuẩn bị tâm lý. Bây giờ
ổng ngủ rồi, nếu cần gì cô cứ bấm chuông gọi...
Lan Chi ngồi xuống ghế cạnh giường! Mắt
anh nhắm nghiền lại, hai dòng lệ mỏng chảy dài trên đôi gò má xanh
xao tái nhợt. Không biết an ủi anh thế nào? Cô nắm chặt bàn tay anh
như ngầm nói rằng: “Anh hãy cố gắng lên, rồi đâu cũng sẽ vào đó! Em
cũng buồn và đau xót như em mất đi một phần thân thể của chính mình.
Nhưng sự mất mát này xứng đáng, xứng đáng lắm anh ơi...” và dòng lệ
nóng cũng chảy dài xuống má cô.
Lan Chi thẫn thờ nhớ lại từ khi được bác
Tài nhận về làm con nuôi. Tính đến nay đã hơn hai mươi năm rồi.
Thành Nhân và Lan Chi sống chung dưới một mái nhà hạnh phúc có cha
mẹ lo lắng thương yêu chiều chuộng. Mặc dù họ không cùng cha mẹ sanh
ra nhưng cả hai thương nhau như anh em ruột thịt. Nhớ khi cô còn
nhỏ, lúc mới đến chưa quen đường thuộc lối. Mẹ bận việc, anh thường
đưa rước cô khi đến trường, lúc tan học. Có bánh trái anh em chia
cho nhau. Anh dẫn đi chơi, dỗ dành khi cô buồn, giải đáp chỉ dẫn cho
cô những bài toán khó, những bài luận, những câu hỏi gút mắc. Anh
thương yêu và luôn xem cô như là em gái của mình.
Khi cả hai anh em khôn lớn. Việc làm của
Thành Nhân cả mẹ và cha đều không rõ ràng cho lắm. Họ cứ tưởng anh
ra trường quân sự, rồi được chuyển qua làm việc về hành chánh ở Bộ
thôi. Đến khi con gái Lan Chi đậu xong phần hai, trong gia đình từ
anh cho đến cha mẹ đều gợi ý và khuyến kích cô học ngành Sư Phạm,
hoặc ngành Y.
Họ
nghĩ rằng đó là hai cái nghề thích hợp cho nữ giới. Lan Chi chỉ vâng
dạ cho qua để cha mẹ và anh được vui lòng. Chớ cái chết thê thảm của
hai đấng sanh thành đã khắc ghi trong tâm trí người con gái này, khi
còn là đứa trẻ mới bốn, năm tuổi. Cô đã chọn cho mình con đường để
đi rồi, không một ai và không vì một lý do gì có thể lay chuyển được
cô!
Để rồi bất
ngờ một hôm Thành Nhân nhận được giấy tờ của nhân viên xuất sắc đã
huấn luyện nhuần nhuyễn kết quả vượt bậc qua mỗi lần thi tuyển. Do
bên trung tâm chuyển đến công tác trong ngành, thì anh mới biết Yến
Tử đó là cô em gái Lan Chi của mình!
Nhiều khi chỉ thị giao công tác hiểm nguy
nhọc nhằn cho em, anh cảm thấy ái ngại. Nhưng đó là phận sự của cô
phải làm, bởi ai đã chọn cho đời mình vào “Đội Thiên Nga” thì coi
như là ngõ cuối của đoạn đường đời, việc sanh tử chỉ cận kề trong
chớp mắt, hiểm nguy và pháo đạn vô tình... Đã biết như vậy, và đã
được khuyến cáo trước khi vào nghề... nhưng từng lớp thanh niên an
nhiên, bình thản tiến tới không ngại ngùng lùi bước việc họ đã chọn.
Còn vợ chồng ông Lê Thành Tài bàng hoàng
sửng sốt được tin con trai độc nhứt của mình bị thương và mất đi một
phần thân thể! Bà khóc bù lu bù loa, ông cũng buồn đau, nhưng mở lời
khuyên vợ:
- Bà
đừng buồn nữa mà có hại cho sức khỏe. Mỗi người có số cả, con mình
bị mất một chân cũng may mắn và hạnh phúc quá nhiều so với những
người tử trận ngoài chiến trường, có người còn mất luôn cả xác nữa
kìa... Thôi thì để nó lành lặn đâu đó yên ổn rồi thì đi hỏi cưới vợ
cho nó, tuy là cái họa nhưng lại là cái phước cho gia đình mình đó
bà à...
Bà Tài là
người đàn bà hiền lành từ tốn. Nghe chồng nói bà nghĩ cũng không
sai, nên cơn buồn qua mau mà lo chăm sóc bổ dưỡng trong việc ăn uống
nghỉ ngơi cho con.
Hôm nay Thành Nhân đã khỏe nhiều, nhưng
anh vẫn còn ốm lắm, da không còn quá tái nhợt nữa. Và bụng anh biết
đói, miệng anh biết thèm ăn uống thì từ đó mỗi ngày, anh dần dà khỏe
mạnh, linh hoạt hơn. Trông mặt mày anh khởi sắc, tóc anh được hớt
ngắn, râu ria được cạo sạch sẽ. Anh được nhân viên tập dùng hai cây
tó để đi ra đi vào phòng vệ sinh (khi chuyển ra trại ngoại khoa).
Rồi Lê Thành Nhân được xuất viện trở về
sống với gia đình có cha mẹ, có em gái chăm sóc chu đáo. Anh cảm
thấy đời mình rất ưu đãi, hạnh phúc. Nhưng riêng Lan Chi nhận xét
cảm thấy trong đôi mắt ngời sáng, cương nghị tràn đầy niềm tự tin và
sức sống của anh mình như luôn vương vướng lớp sương mờ!
Sau hơn một năm dưỡng thương, giờ đây
Thành Nhân có thể giải ngũ vì thương tật của mình. Đó cũng là sự
mong muốn của cha mẹ anh, vì giặc giã xảy ra bao nhiêu cảnh thương
vong hàng ngày trên báo chí từ các chiến trường tới tấp đưa về, đã
làm ông bà sợ hãi cho sự an nguy của con mình.
Một hôm cha mẹ đi vắng, Thành Nhân hỏi:
- Lan Chi nè, theo em thì anh nên giải ngũ
hay trở lại làm việc?
Lan Chị hơi ngạc nhiên vì ông anh mình là
người tự tin, ít khi đem tâm sự nói với ai, hoặc nhờ người khác
quyết định việc gì đó của anh ta. Cô nhìn sâu vào mắt Thành Nhân,
bảo:
- Sao lại
hỏi em, em làm gì mà quyết định cho anh được? Chỉ có anh quyết định
cho mình thôi.
Nói đến đó cô ngập ngừng, rồi mỉm cười tiếp:
- Nhưng nếu là em, thì em sẽ đi làm lại!
Anh đã khỏe mạnh rồi mà. Chân anh mất nhưng tâm hồn và lý trí anh
vẫn còn nguyên vẹn chớ có sứt mẻ gì đâu? Vả lại ở nhà anh sẽ buồn
chán, không thoải mái và cảm thấy là mình không còn khả năng làm
việc, mình là người thừa thãi, vô dụng...
Nói đến đó, cô dừng lại cười khì chọc quê:
- Và em cũng nghe lòng mình xốn xang khi
thấy anh ngồi bên cửa sổ nhìn khói thuốc bay, rồi làm thơ thương mây
khóc gió bắt em phải làm độc giả thì khổ cho em lắm lắm! Anh cũng
biết, chúng ta đã được tôi luyện rồi, em chỉ muốn nhắc nhở anh thôi!
Còn việc trở lại công tác hay giải ngũ là do anh quyết định cho mình
đi. Em có ý kiến, sau này gặp chuyện gì không vừa ý thì anh sẽ đổ
thừa cho con nhỏ này xí xọn, chuyên môn xúi dại... như mấy lần trước
thì phiền lắm đó!
Thành Nhân thấy cái mặt vắc hất có vẻ dỗi
hờn, ngoe nguẫy của cô em thì không nhịn được, bật cười thành tiếng.
Lan Chi nguýt anh, càm ràm:
- Chớ không phải sao mà anh cười vui như
được quà Tết vậy? Nhớ hồi anh còn học năm Đệ nhị. Chị Thu Hà con ông
Chủ sự Kiêm lúc đó ở ngang nhà mình. Chị để ý, và có dịp thì luôn
hỏi thăm em về anh. Khi em về kể lại, nghe xong anh khoái chí tử
thấy bà. Hai người còn nhờ con nhỏ này làm liên lạc đưa thư qua, thư
lại cho nhau nữa. Sau đó việc của anh chị bị đổ bể. Má của chị Thu
Hà qua méc với ba má mình. Trước mặt ba má anh thiệt là tệ quá đi
thôi! Dám làm mà không dám nhận, cứ chối bay chối biến, đổ hết tội
lỗi cho người ta. Làm em bị một trận đòn muốn tét da, tét thịt! Cho
đến bây giờ nhớ tới em còn thấy đau và tức mình muốn chết!
Nghe Thành Nhân lớn tiếng cười ha hả...
Lan Chi nổi nóng háy anh con mắt có đuôi, nạt vãi:
- Xì, đến bây giờ anh chẳng những không
hối lỗi, mà còn cười ha há, hô hố, cười sặc sụa, cười muốn vỡ cả nóc
nhà nữa! Vô duyên! Bộ vui lắm sao mà cười...?
Còn sặc sụa hụt hẫng trong tiếng cười,
Thành Nhân quơ quơ tay bảo:
- Vui lắm, vui lắm chớ sao không? Nghĩ lại
đi, bộ em tốt bụng giúp anh đó sao? Cao xanh ơi! Mỗi lần đưa thư dùm
em cũng đã được bao nhiêu tiền em nhớ chớ? Tiền ba mẹ cho anh không
dám ăn bánh, dành dụm được đem hối lộ cho em hết... còn bao nhiêu
gói ô mai, gói xí muội, bao nhiêu chầu «xi-nê-ma» và sau đó phải bao
em ăn uống nữa! Em là đứa nổi tiếng tham ăn và ăn hàng vặt như chúa
chổm? Còn phía bên Thu Hà mỗi lần nhờ vả em chuyển tin tức, thư từ
chắc em cũng xơi tái của cô ta không ít, có đúng không? Được lời như
vậy không biết ơn anh thì chớ, em nghĩ lại coi có bị thiệt thòi, hay
bị ức hiếp gì đâu... mà sao cứ nhớ chuyện cổ lỗ sĩ đó trong bụng
hoài vậy?
Giữa sự
cãi nhau bốp chát không ai chịu thua ai, nhứt là cô em gái lanh
miệng này! Nhưng trong tâm hồn mỗi người đều rộn nở niềm vui, niềm
hạnh phúc không tên... mà họ chưa bao giờ nghĩ tới...
Thành Nhân trở vào làm việc, và được
chuyển qua ngành khác ở Bộ chỉ huy của Trung tâm. Cha mẹ rất vui
mừng khi biết hai con làm cùng sở. Cứ sáng thì anh chở đưa Lan Chi
đến chỗ làm rồi chạy qua sở mình (chỉ cách có con đường), chiều ghé
qua rước em về rất tiện lợi.
Có khi trời trong, nắng ráo cả hai đi dạo
xem những buổi trời chiều hoàng hôn xuống bên kia sông Thủ Thêm. Hai
anh em ngồi trên băng đá ngắm nhìn mặt trời có màu vàng nghệ, hình
bầu dục như quả trừng gà, treo lơ lửng giữa nước mây... ánh nắng
chiều phản chiếu trên mặt nước sông sóng sánh lăn tăn... tỏa óng ánh
những sắc màu tươi vui rực rỡ. Thành Nhân trầm ngâm châm thuốc hút
chẳng nói chẳng rằng, không ai biết anh ta đang nghĩ gì? Trong khi
cô em Lan Chi tâm hồn phới phới trước cảnh chiều tà, ánh hoàng hôn
gần tắt thoi thóp trải chập chờn trên cây cối lá hoa bên kia sông...
Thật tuyệt vời, cô nghĩ rằng trên thế gian này dù có họa sĩ tài ba
xuất chúng đến mấy, cũng không làm sao họa được bức tranh thiên
nhiên sống động này...
Có khi Thành Nhân chở em ghé qua tiệm ăn
chiều trước khi về nhà... hoặc cả hai cùng xem chiếu bóng ở rạp. Có
lần xem phim «The Bridge On The River Kwai» (Bên Cầu Sông Kwai), một
phim dài hậu chiến tranh! Đã vãn hát ra khỏi rạp Lan Chi vẫn còn
ngậm ngùi, xót xa những chiến binh bị đày đọa trong lao tù và đi làm
cây cầu qua sông Kwai... Không cầm được nỗi đau lòng, mắt đỏ hoe...
cô vẫn còn thút thít khóc!
Thành Nhân nhẹ giọng:
- Em khóc hả, tại sao? Nghề nghiệp đã tôi
luyện em thành một nhân viên thạo việc, giỏi về nhiều mặt, cứng rắn,
kiên cường, quyết tâm... Nhưng nghĩ cho cùng, anh thấy dù sao cũng
không tránh được tâm tư yếu mềm của nữ giới...
Hụt hẫng trong dòng lệ, Lan Chi bảo:
- Phải, bởi em là một phụ nữ nên không làm
sao tránh khỏi sự tha thiết của con tim bằng xương bằng thịt! Chuyện
phim xem hôm nay buồn quá anh à, nước mình chiến tranh mãi như thế
này... em nghĩ chắc là mình sẽ không lập gia đình đâu...
Thành Nhân thở dài không nói gì, cả hai đi
đến chỗ gởi xe, lấy xe về nhà. Trời gần khuya, có trăng lưỡi liềm
như lưỡi hái của tử thần... treo lơ lửng ở phương tây, chiếc vespa
chở hai người chạy vùn vụt trên đường hướng về nhà. Gió mát rượi,
đường phố thưa thớt người... lác đác vài kẻ buôn gánh bán bưng những
món ăn khuya như chè, cháo... cũng nhanh chân về kẻo đến giờ giới
nghiêm!
Dù trở về
làm việc, nhưng Thành Nhân không còn đi công tác xa, và vắng nhà dài
hạn như dạo trước khi anh bị thương nữa. Còn Lan Chi thỉnh thoảng đi
đây đi đó đôi ba ngày, hoặc tuần lễ mà thôi. Ông bà Thành Tài đã lớn
tuổi, nên xin hưu trí để hưởng tuổi già, sau mấy mươi năm bận rộn
với việc làm. Bây giờ gia đình họ an vui, hạnh phúc theo ngày tháng
thoi đưa, nhưng ông bà Lê Thành Tài vẫn canh cánh trong lòng bởi hai
đứa con lớn xồng xộng mà vẫn chưa đứa nào chịu thành gia thất.
Có một hôm trên bàn ăn cơm chiều, ông
Thành Tài vui vẻ lên tiếng nói với vợ và hai con:
- Mấy ngày trước ba có gặp ông Huỳnh Tứ
Việt, có lẽ Thành Nhân và Lan Chi chắc không biết họ đâu, còn bà thì
có còn nhớ ông bà Việt không vậy? Ổng xin tui hôm nào vợ chồng được
qua thăm nhà mình. Ý ổng muốn hỏi dọ ba má coi Lan Chi có chỗ nào
chưa, để cưới cho con trai thứ của ổng. Cậu Huỳnh Thuận Hòa cũng cỡ
tuổi Thành Nhân, mười mấy năm trước đi học bên Pháp, khi ra trường
thì làm ăn ở bên đó. Nghe nói khá lắm, gia đình người ta cũng thuộc
hàng gia thế giàu có. Lan Chi ưng con ổng, nếu muốn ở đây thì ổng bả
sẽ mở cho cửa hàng làm ăn. Còn chịu theo chồng qua Pháp thì càng
tốt, vì bên đó đã có sẵn cơ ngơi cả rồi...
Bà Tài hài lòng cười tươi, góp ý:
- Ờ, vậy hả? Vợ ông Việt thì tui mới gặp
trên chùa vào rằm tháng rồi. Bà ấy có tiền mà bình dân, con người độ
lượng, hay làm ơn làm phước. Họ thuộc về gia đình gia giáo, đạo đức.
Chỗ này má cũng thấy được đó Lan Chi, con nay cũng đã lớn rồi thôi
thì bằng lòng đi...
Bỗng quay qua con trai:
- Còn thằng Nhân cũng vậy! Chỗ này không
được, chỗ kia không được... kén chọn riết không biết bao giờ mới
thành hôn đây? Thôi thì con để ý con gái nhà ai cứ cho ba má biết,
để ba má lo cho...
Lan Chi đỏ mặt cúi xuống và lẹ cơm vào
miệng. Ra ngoài xã hội về học lực, về tài trí cô không thua kém ai,
nhưng bản chất của người con gái Á Đông vẫn còn trong cô, nên mỗi
lần nghe cha mẹ, hay ai nhắc nhở đến chuyện lấy chồng cho mình thì
cô đỏ mặt tía tai lỏn lẻn bỏ đi nơi khác.
Thành Nhân không nói gì, ậm ừ với cha mẹ,
ăn qua loa rồi ra ngoài chiếc băng đá kê bên tàn cây mận đốt thuốc
hút. Nét mặt trầm tư, đôi mắt buồn nhìn trời mông lung xa vắng qua
làn khói thuốc tỏa bay...
Ngày đó rồi cũng đến, bởi hai bên có hẹn
trước, nên hôm nay gia đình ông bà Việt cùng với cậu con trai tên
Hòa và đứa con gái út đến thăm gia đình ông bà Tài. Họ vừa bước vô
nhà thì hai anh em Thành Nhân cũng đi làm về tới. Bà Tài chận con
lại ngoài cửa trước, bảo đi thẳng vào nhà chào hỏi người ta.
Mấy người lớn nói chuyện rất tương đắc.
Anh chàng đi coi mắt vợ xem mòi cũng vừa lòng đẹp ý lắm, dù chỉ mới
lần đầu gặp cô con gái xinh xắn dễ nhìn Lan Chi. Ông bà Tài thì mừng
thầm trong lòng, chắc mẻm là con gái mình cũng vừa ý chàng thanh
niên hoạt bát, mặt mày sáng sủa, bảnh trai, có phong cách này rồi...
Tiễn khách về xong, ông bà Tài cũng lật
đật lên chùa cúng sao kẻo trễ, chỉ còn hai anh em ở nhà. Lan Chi
thấy anh mình ít nói hơn mọi ngày, vẻ mặt lầm lì đen thủi đen thui
như trời sắp xập xuống! Anh ngồi hút hết điếu thuốc này, đến điếu
khác «điếu lật gộng, điếu động quan» cả mấy giờ rồi. Cô hỏi đến đâu
anh trả lời đến đó, chớ không ba hoa chích chòe, chọc ghẹo em như
mọi khi.
Thấy mặt
anh đăm chiêu có vẻ khác thường, Lan Chi liền pha hai tách nước trà
còn nóng hổi bưng ra cho mình và cho anh, mỗi người một tách... Ngồi
xuống ghế đối diện với anh, cô e dè rồi nhỏ giọng hỏi:
- Anh Hai, hôm nay có tâm sự hả? Hãy nói
cho em nghe đi, cứ nói ra biết đâu em có thể chia sẻ với anh. Nói đi
anh, nếu có chuyện gì buồn anh nói ra sẽ cảm thấy dễ chịu hơn
[là]
giữ trong lòng sẽ khó chịu lắm...
Thành Nhân không trả lời. Anh hít mạnh
điếu thuốc rồi phà làn khói trắng tỏa bay trong gió. Bỗng từ chiếc
máy hát của nhà hàng xóm, ngân nga vọng đến bài hát có lời ca buồn
vời vợi:
“Chuyện
tình của tôi xa lắm tự lâu rồi tôi không bao giờ nhắc đến.
Nhưng bỗng một hôm trên đường ra phố thị tôi gặp lại em ngày nào...
Nàng nhìn tôi, đôi mắt thật bâng khuâng...
Cũng đôi mắt này năm xưa lạc vào hồn tôi...
Trong những đêm không ngủ, tôi nhìn khói thuốc bay...”.
Bài «Đôi
Mắt Người Xưa» của nhạc sĩ Ngân Giang do Chế Linh
hát. Giọng ca thê thiết của ca sĩ đã làm cho tâm hồn Lan Chi bồi hồi
xúc động. Mặc dù tâm tư cô không vướng bận chuyện gì về tình cảm.
Nhưng cô chợt thở dài, nói bâng quơ:
- Thiệt tình, giọng ca sao mà não nuột quá
trời! Ai có tâm sự buồn mà nghe cái giọng... của ca sĩ này thì càng
thêm thúi ruột mà chết sớm.
Thành Nhân dụi điếu thuốc đang hút chưa
hết:
- Lan Chi,
em thấy anh chàng Hòa coi mắt em hôm nay thế nào? Có lọt mắt xanh
của em không?
Cô
chưng hửng khi nghe hỏi. Nhưng cô mỉm cười vui vẻ trả lời anh:
- Em có nhìn hắn đâu mà biết mặt mũi ra
sao? Nên không biết trả lời với anh thế nào đây? Mẹ bảo chào người
ta thì em vào chào, cho mẹ vui lòng vậy thôi.
Thành Nhân nhìn thẳng vào mắt em:
- Thiệt vậy à, nhưng theo nhận xét của anh
thì hình như em đã chấm anh chàng Hòa đó rồi?
Lan Chi vẫn thản nhiên, ỡm ờ nói giỡn:
- Ủa thiệt bộ anh thấy vậy hả? Sao em
không biết cà! Nhưng xin lỗi nghe, anh đã đoán sai rồi! Không phải
anh ta, mà người khác, em đã có đối tượng rồi anh Hai ơi...
Đến phiên Thành Nhân ngạc nhiên quá đỗi!
Anh mau miệng lắp bắp hỏi Lan Chi:
- Ai vậy, anh có biết không? Anh ta làm
việc ở đâu, không làm chung sở với chúng ta chớ?
- Anh hỏi chi vậy? Chuyện của em mà “Thiên
cơ bất khả lộ”!
Chợt Lan Chi ngừng nói, nhìn anh mình hỏi:
- Mà nè anh Hai à, anh còn nhớ cái ông
chiêu hồi tên Sáu Trường Sơn không hả?
Thành Nhân vừa ngạc nhiên vừa khó chịu!
Anh ta hằn học bảo:
- Bộ em vẫn còn liên lạc ông ta hả? Ông đó
là người em để ý, em thương à?
Lan Chi tự nhiên, trả lời:
- Không, không phải vậy đâu. Bởi ông Sáu
Trường Sơn sanh cùng quê quán với em. Ông ta cũng họ Bùi, nên em
muốn gặp ông ta một lần để hỏi thăm xem có bà con chi không? Sao có
sự trùng hợp ngẫu nhiên như vậy? Mà anh có thấy đó là sự trùng hợp
không anh Hai?
Không ai biết trong lòng Thành Nhân đang nghĩ gì? Anh ta như không
nghe em mình nói mà nổi nóng, lồng lộng lên:
- Em trông hiền lành mà không ra gì! Quen
người đàn ông này chưa xong thì muốn tìm hiểu về người đàn ông
khác... Em làm anh quá thất vọng! Thôi thì cứ ưng đại ông Hòa coi
mắt hồi sáng cho rồi đi. Để được qua Tây ở! Đó không phải là mộng
ước của em và các cô gái thời nay muốn lấy chồng ngoại quốc, hoặc
sống ở ngoại quốc sao?
Lan Chi cũng không vừa, trở giọng nạt tưới
hột sen:
- Anh
thiệt là vô duyên hết nói nổi! Em có hỏi chuyện riêng tư gì của anh
không? Em quen với ai, hay em muốn ưng ai thây kệ em. Đó là quyền tự
do cá nhân của em, chớ có mắc mớ gì tới anh đâu mà anh xía vô? Sao
anh nhiều chuyện quá vậy?
Không kềm chế được, Thành Nhân nói nhanh:
- Sao không mắc mớ? Tại vì anh đã yêu em!
Lan Chi mở to mắt há hốc miệng! Không còn
tự chủ được nữa, toàn thân như không vững... tay run rẩy buông rơi
tách trà xuống nền gạch bể toang nước văng tung tóe... cô ngồi qụy,
úp mặt xuống bàn... bật khóc!
Các viên chức từ trên xuống dưới trong
Trung tâm đã lần lượt rút đi hơn cả tháng nay. Mẹ của Thành Nhân đột
ngột qua đời, cha anh đang đau nặng và vợ lại sắp đến ngày sanh, nên
anh cứ trì hoãn đến giờ thì đồng đội đã ra đi hết rồi...
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 giặc tràn vào!
Hai vợ chồng Thành Nhân, Lan Chi đều bị kẹt lại! Họ đoán biết được
chuyện gì sẽ xảy ra cho bản thân, nếu cả hai đi trình diện với bọn
giặc Cộng. Giữa lúc nước non tan đàn vỡ nghé, ồn ào, bề bộn, xáo
trộn ở mọi ngành nghề. Cơ quan chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa đã thất
thủ bỏ ngõ, sau lời kêu gọi của Dương Văn Minh!
Lợi dụng lúc hỗn loạn, đêm ba mươi, Thành
Nhân đem cha và vợ trốn về quê của một cộng sự viên ngày xưa tá túc.
Đó là vợ chồng anh Sáu Điền (bị thương tật đã giải ngũ). Từ sau giải
ngũ, họ trở về quê và hiện là cư dân ở bãi biển Vàm Láng (Gò Công).
Thành Nhân đến tá túc với vợ chồng anh Sáu, sống ẩn nhẫn để chờ ngày
vợ sanh con xong, sẽ tìm đường ra đi.
Những ngày sống ở Vàm Láng, vợ chồng Lan
Chi né tránh, trốn chui trốn nhủi bọn cách mạng 30 tháng 4 dòm ngó,
chỉ điểm, lùng bắt thật là mệt mỏi. Giữa khuya thì Thành Nhân theo
tàu đánh cá ra khơi chiều tối mới trở về. Cứ thế, ngày này qua ngày
khác, chờ thời cơ để bôn đào. Dẫu biết rằng có trăm phương ngàn thứ
khổ nạn trên đường vượt biên. Nhưng họ đã quyết định vì hàng vạn rủi
ro cầm bằng cái chết, chỉ có cái may duy nhứt vượt thoát mới tồn
tại. Họ vẫn không thay đổi ý định, quyết tâm chờ chuyến trốn bỏ quê
hương của đôi vợ chồng Thành Nhân.
Sau tang cha một trăm ngày (3 tháng 10).
Đứa con trai Thành Tâm được sáu tháng thì vợ chồng Lan Chi theo gia
đình anh Sáu Điền cùng họ hàng thân thuộc và một số ngư dân, vượt
biên theo ngã Vàm Láng cũng vào Đêm Ba Mươi (Âm lịch). Đêm không
trăng sao, tối trời để đoàn người vượt biển dễ dàng trốn thoát...
Nhưng “Họa vô đơn chí/ Phước bất trùng
lai” nỗi buồn khổ tột cùng luôn kề cận bên đôi vợ chồng này! Biết
rằng cuộc trốn chạy nào mà không đau khổ, mất mát? Nhưng một mất mát
quá lớn đã đến với họ! Đứa con trai đầu lòng tên Thành Tâm chưa tròn
tuổi, chưa biết kêu cha, gọi mẹ, chưa biết đau khổ, chưa biết sự
lường gạt, chua ngoa, tàn độc của lòng người, của cuộc đời thì đã
dìm thây trong lòng đại dương!
Bởi trên đường vượt biên, tàu họ đi đã hơn
nửa tháng trời, nổi trôi lênh đênh trên biển vì tránh gió bão, rồi
bị lạc phương hướng. Xăng dầu dần dà khô cạn... Hơn bốn chục (40)
thuyền nhân đói khát bịnh hoạn nằm la liệt, vì hết lương thực, hết
nước uống...
Vợ
chồng Thành Nhân cầm cự cho đến ngày thứ tám, thì Lan Chi không còn
sữa, và chồng cô ngất xỉu vì lấy máu cho con bú! Thằng Bé Thành Tâm
đã vĩnh viễn ra đi! Những người cùng tàu không còn hơi để hỏi han,
chia buồn, cha mẹ không còn nước mắt để khóc! Thành Nhân đôi mắt vô
hồn như cắt từng đoạn ruột tự tay thả con mình vào lòng biển khơi!
Lan Chi mắt trắng dã! Nàng chìm trong cơn mê sảng bởi cái đau đớn
tột cùng của mẹ mất con...
Chuyến vượt biên trên tàu của anh Sáu Điền
được vào trại tạm cư Ga-Lăng (trại tập trung của Liên Hiệp Quốc
thành lập trên một hòn đảo của Indonesia, cho thuyền nhận tỵ nạn
cộng sản ở vùng Đông Nam Á) chỉ còn được hai mươi bảy người. Già,
trẻ, bé, lớn đã chết trên biển mười ba người! Những người còn sống
sót như được một lần tái sinh!
Như bao nhiêu thuyền nhân khác đến đảo,
sau khi khai xong hồ sơ lý lịch cho Cao ủy Liên Hiệp Quốc. Thành
Nhân và Lan Chi trong thời gian trống trải, chờ đợi qua nước tạm
dung, họ dạy Anh văn cho những thuyền nhân đang chờ định cư...
Vào một buổi trưa trời đẹp nắng. Thật bất
ngờ, có hai nhân viên người Hoa Kỳ cùng ngành ngày xưa, bay từ Mỹ
đến bốc Lan Chi và Thành Nhân đi ngay trong hôm đó trước sự ngạc
nhiên, mừng rỡ vô cùng của họ và những người chung quanh. Một sự bất
ngờ hạnh phúc ngoài dự liệu, nên cả hai chỉ kịp từ giã vợ chồng anh
Sáu Điền, người đã giúp đỡ gia đình họ suốt thời gian dài trong
nước, và vượt biên... Chớ không có thời gian để họ giã từ những
người cùng hoạn nạn thừa chết thiếu sống trong chuyến hải hành.
Vào thập tniên tám mươi (1980) ở Mỹ muốn
có một cuốn sách Việt ngữ để đọc thật khó khăn... phải gởi mua ở tận
bên Pháp! Sau bữa cơm chiều Thành Nhân đang dở từng trang sách mới
mua ra xem, đọc xong phần tiểu sử tác giả, chàng chợt giựt mình, lẩm
bẩm “oan gia lại gặp nhau” nữa rồi! Lan Chi đang rửa chén thấy chồng
vừa chăm chú đọc sách, vừa nhỏ to một mình, nàng hỏi:
- Tác giả viết có hay không, mà anh có vẻ
suy tư quá vậy, còn thì thầm một mình nữa?
- Chưa đọc hết, nên không biết hay dở.
Nhưng em lại đây xem, cuốn hồi ký này anh thấy có gì là lạ? Anh cảm
tưởng như chúng mình có quen biết với tác giả?
Hai vợ chồng Lan Chi quyết tâm tìm kiếm
nhà xuất bản để hỏi thăm, và khó khăn lắm mới biết được số điện
thoại của tác giả. Thế rồi hai bên hẹn và tìm gặp nhau ở tháng sau.
Trái đất tròn mà vẫn hẹp lắm! Nhờ Ơn Trên
hộ độ, nơi xứ lạ quê người Lan Chi tìm được người anh cùng cha mẹ
với nàng thất lạc đã mấy chục năm! Đó là người Việt Cộng hồi chánh
Sáu Trường Sơn!
Số là Bùi Vĩnh Bảo có biệt danh là Sáu Trường Sơn xa nhà từ thuở
trai trẻ. Anh theo tiếng gọi của quê hương đi chống Pháp, Bùi Vĩnh
Bảo lớn hơn cô em gái Bùi Hoàng Lan một con giáp (12 tuổi). Cô chào
đời được hai năm thì anh cô đi theo Thanh Niên Tiền Phong, và khi
lãnh thổ chia đôi tập kết ra Bắc. Để mấy chục năm sau Việt Cộng nổi
dậy, lấy tên là Giải Phóng Miền Nam đã giết cha mẹ anh Sáu Trường
Sơn. Vì ông bà không chịu theo bọn nằm vùng và giúp đỡ cho chúng...
Khi trở về Nam, Bùi Vĩnh Bảo tìm lại nguồn
cội của mình. Anh được người tá điền thân tín của cha, trước khi qua
đời đã kể hết những chuyện xảy ra của gia đình cha mẹ! Cõi lòng tan
nát, từ đó cho đến khi miền Nam rơi vào tay cộng sản... anh đã khổ
công âm thầm tìm kiếm cô em gái thất lạc của mình. Nhưng bóng chim
tăm cá! Bởi cả hai anh em mỗi người một nơi và đều thay họ đổi tên.
Lan Chi quay về thực tế khi chồng đưa
chiếc khăn tay! Bà lấy khăn lau dòng lệ long lanh chảy dài trên má,
Thành Nhân trầm giọng:
- Đừng buồn nữa em! Chúng ta không phải đã
hơn hẳn những người khác cùng cảnh ngộ rồi sao? Bây giờ chúng ta còn
có anh Hai. Mặc dù anh Hai không có vợ con, nhưng anh sống vui, sống
khỏe, trải rộng tâm hồn mình bằng ngòi bút lên từng trang sách báo
để làm vui cho đời. Anh Hai cũng không cảm thấy cô đơn, vì anh còn
có chúng mình. Chúng ta sống chung trong một gia đình êm ấm, nương
tựa lẫn nhau ở tuổi về chiều. Ngoài ra chúng ta đến xứ người còn có
được cặp trai song sanh nay đã trưởng thành theo nghiệp mẹ cha.....
Vậy là hạnh phúc lắm rồi! Mọi việc trên cõi đời nhiêu khê nhiều hệ
lụy này đều do Thượng Đế an bài. Thôi đừng buồn nữa, đoạn đường gian
khổ của chúng ta đã qua rồi...
Lan Chi nghẹn ngào:
- Em cũng muốn quên lắm chớ! Nhưng không
làm sao quên được vào Đêm Ba Mươi Tết năm nào về cái chết thảm
thương của ba má em! Quên sao được những trận pháo giặc nã vào thành
phố, trường học, giáo đường! Quên sao được trận thảm sát của giặc
vào Tết Mậu Thân ở miền Nam, nhứt là trên đất Huế! Em làm sao quên
được mỗi lần nghe tiếng khóc của trẻ thơ... Em cứ tưởng đó là tiếng
khóc của con Thành Tâm chúng mình chết trên hải trình vượt biên!
Hình ảnh nó giẫy giụa gào thét trên tay em lúc khát sữa! Đến khi
không còn khóc nổi nữa nó âm ỷ rên, cho đến khi trút hơi thở cuối
cùng, mà miệng con vẫn còn mở chờ bầu sữa mẹ... Trời hỡi, thê lương
quá! Tàn nhẫn quá! Đời kiếp này làm sao em quên được đây!
Lan Chi tựa đầu vào vai chồng ràn rụa nước
mắt! Thành Nhân yên lặng ngậm ngùi thổn thức, nhớ lại hoàn cảnh gia
đình đã trải qua! Mắt chàng hướng qua song cửa sổ nhìn bầu trời cao
thăm thẳm.
Đêm Ba
Mươi Tết lại về! Không gian đắm chìm trong màu đen huyền hoặc, nền
trời in lấm tấm ngàn vạn vì sao. Thỉnh thoảng trên tầng cao thật
cao, tiếng máy chiếc phi cơ gầm gừ, lóe ánh đèn chớp tắt chầm chậm
bay qua. Và sau đó chỉ còn lại tiếng chim ăn đêm, tiếng gió khua
động lào xào cành lá, cây cối quanh nhà.
Bùi Vĩnh Bảo ngồi xem truyền hình, nhưng
nghe hết những lời đối đáp của vợ chồng cô em gái. Đứng lên, đến bàn
lấy bình nước trà chế thêm vào tách, ông chép miệng thở dài rồi ôn
tồn bảo:
“...Hai
em nghĩ xem, có con đường đi tìm tự do nào mà không cam go, mà không
trả một giá thật đắt? Trong không gian cao và rộng, có những cánh
chim lả lướt bay, có những chiếc phi cơ khổng lồ âm thanh rền vọng.
Khi chim và phi cơ bay qua rồi không để lại vết tích nào cả! Mặt
nước sông dài, mặt biển rộng bao la, bát ngát không thấy bờ bến. Có
những chiếc ghe, những chiếc tàu dù nhỏ hay lớn khi đã qua rồi cũng
không để lại dấu tích gì trên mặt nước. Nhưng núi cao ngút trời,
rừng sâu thăm thẳm, trên đồng bằng đất đai màu mỡ hay khô cằn sỏi
đá, rộng bao la, dài bát ngát chim bay mỏi cánh, chó chạy cong
đuôi... Khi có bước chân của người đi qua, một người, hai người, ba
người đi qua, nhiều người giẵm lên thì nó sẽ trở thành con đường.
Con đường đó sẽ có những bước chân tiếp nối từ thế hệ này đến thế hệ
khác. Rồi đường được khai phá, mở rộng, vun bồi...hai bên đường sẽ
được cất lều, xây nhà, trồng cây ăn trái, trồng hoa thơm cỏ lạ... Đó
là đường chúng ta đã đi qua...”
Không gian vào Đêm Ba Mươi lúc nào cũng có
màu đen thật đen. Trên nền trời in những chùm sao li ti lấp lánh...
Bên ngoài tiếng rì rào thì thầm của gió rung cây, có loài chim ăn
đêm bay chập chờn trên dòng sông vắng sau nhà, thỉnh thoảng chúng
cất tiếng kêu oang oác xa dần, xa dần... rồi mất hút. Trong ngôi nhà
nhỏ bát ngát mùi nhang, trầm, hoa vạn thọ, hoa liên kiều, dưa hấu,
cam, quít... cùng mâm ngũ quả, và bánh tét, bánh chưng, mứt, chà
là... Gia chủ đã chưng cúng trên bàn thờ ông bà tổ tiên để đón mừng
năm mới. Tiếng lách tách của củi cháy trong lò sưởi rực rỡ ánh lửa
hồng thắp sáng căn phòng gia đình trong đêm trừ tịch bên xa lộ không
đèn dài ngút ngàn...
Bỗng có tiếng xe dừng lại trước nhà, cả ba
người đều nhìn nhau dò hỏi? Không ai bảo ai họ tiến gần cửa sổ nhìn
bầu trời tối đen như nhuộm mực tàu, cùng thấy hai bóng đen cao lớn
như dân bản xứ, nhanh nhẹn bước ra khỏi xe và đi vào... Cửa nhà bật
mở, ông Bùi Vĩnh Bảo và Lê Thành Nhân ngạc nhiên... giây phút bất
chợt mắt đỏ trong nụ cười rạng rỡ mừng vui. Đứng phía sau họ, chiếc
khăn tay Lan Chi rơi xuống... bà lao đến mở rộng vòng tay ôm chầm
lấy hai con trong bùi ngùi nức nở, nghẹn ngào, trong nước mắt ràn
rụa... bà thổn thức “Con tôi đã về, con tôi đã về...”
Bữa cơm muộn của hai thanh niên trong Đêm
Ba Mươi Tết. Cha và cậu mắt ngời sáng nghe con, cháu kể chuyện những
ngày qua... Riêng Lan Chi trìu mến nhìn con lính quính múc thêm món
này, đem thêm món khác... mà niềm mừng vui và thương cảm dâng ngập
cõi lòng của mẹ.
Dẫu biết rằng hai đứa con bà sanh ra và trưởng thành trên nước Mỹ có
tự do, nhân quyền thật sự... không ai có thế bắt làm những chuyện mà
chúng không muốn! Nhưng hai đứa con của vợ chồng Thành Nhân và Lan
Chi đã tự chọn cho mình con đường mà thời thanh xuân nơi quê hương
chinh chiến triền miên cha mẹ đã đi qua!
Bà Lan Chi cảm thấy xót xa trong tấm lòng
của người mẹ... Bởi bao nhiêu gian nan, nguy hiểm... có thể đến bất
cứ lúc nào cho những kẻ âm thầm len lỏi trong lòng đất địch mang
trọng trách bên mình... dù không ai bắt buộc họ phải làm, phải hy
sinh...
Dưới ánh
đèn điện của phòng ăn, trong lòng của Lan Chi: Cũng đôi mắt cương
nghị ngời sáng, nét mặt uy nghiêm, điềm đạm... đó, chồng và hai đứa
con bà ngồi gần... thật sự ba cha con giống nhau như ba giọt nước!
Bỗng đứa con lớn mỉm nhẹ nụ cười nhìn mẹ:
- Xin lỗi ba me và cậu, vì trách nhiệm và
bổn phận của những người lính như anh em con... Không có thời gian,
không gian, không nơi nào nhứt định, không biết trước nơi nào sắp
đến và đi, cũng không có gì cho cá nhân mình... nên chúng con không
hẹn trước về thăm gia đình thường xuyên như ý muốn được!
Đứa thứ hai, tiếp lời anh mình:
- Chúng con rời Trung Đông... đến khi
xuống phi trường Los Angeles mới biết là hai đứa được về thăm nhà
trong đêm Ba Mươi Tết! Nhiệm vụ mới của chúng con sẽ là vùng Châu Á,
vẫn chưa biết nước nào? Có thể Bắc Triều Tiên, có thể Trung cộng, có
thể “Vũng Áng Formosa” của Việt Nam. Ba mẹ cũng biết mọi sự việc
luôn được bảo mật tối đa...
Cả nhà đón giao thừa xong thì vào nghỉ
ngơi, để sáng mừng ngày đầu của năm... Nỗi mừng vui con về thăm còn
nồng ấm trong lòng mọi người trong gia đình và chập chờn trong giấc
mơ xuân...
Tiếng
động khóa trái cửa khiến Lan Chi trở giấc, bà nhổm dậy và bước xuống
giường đi về phía cửa số... Trời nửa đêm về sáng sương mù còn dầy
đặc giăng mắc đó đây... Trong bóng đêm nhòa nhạt của đêm Ba Mưới
rạng sáng mùng một Tết Nguyên Đán... chiếc xe từ từ nhẹ lướt trên
đường đưa hai con bà hướng ra xa lộ... Dòng nước mắt chảy dài xuống
má, bà sụt sùi úp mặt trên đôi bàn tay, đôi vai gầy rung rung...
- Đừng buồn em, lúc chúng còn nhỏ thì là
con cháu của chúng ta, khi lớn khôn chọn cho mình bước vào ngành đó
rồi thì là con của thế nhân... Bởi những người “Lính Không Biên
Giới” như chúng, không phân biệt lãnh thổ, chủng tộc và không quyền
lựa chọn cho riêng mình...
Giọng nói trầm buồn của chồng khiến nàng
càng thêm thổn thức. Ông anh cầm mảnh giấy nhỏ vừa lấy ở bàn viết
đưa cho vợ chồng cô em.
Những dòng chữ còn in rõ nét mực “Ba mẹ và
cậu giữ gìn sức khỏe, chúng con đi... Hy vọng ngày không xa, Việt
Nam trở lại thanh bình dưới Chánh thể Cộng Hòa, cậu và ba mẹ sẽ về
thăm lại cố hương...” Ngắm nghía từng nét chữ của con trên mảnh giấy
nhỏ để lại trước khi rời nhà, mắt lệ rưng rưng... Lan Chi càng
thương cảm hai con vô cùng!
Đêm Ba Mươi Tết đã tàn, nhưng ngoài trời
vẫn bao trùm màu sương trắng mờ mịt. Ngọn gió xuân man mác hiu hiu
thổi trên cây cành va chạm vào nhau âm thanh rào rào... và trên đám
hoa liên kiều rộ nở đón mừng xuân bên kia bờ sông... Tiếng chim kêu
líu lo đón chào ngày đầu của năm, từ vô tuyến truyền hình trong nhà
các đài Việt Nam ở California phát hình ảnh trăm hoa đua nở có màu
sắc hớn hở tươi vui sống động của mùa xuân xa xứ. Bỗng bài “Xuân Nơi
Đây” được nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ nhạc, và những bài ca ngợi về Tết
Nguyên Đán... rộn rã qua giọng ca sĩ tha thiết âm vang trầm bổng
quyện trong gió xuân nồng... Phương đông mặt trời mới nhú tạo một
vòng lớn màu sắc rực rỡ... báo hiệu một ngày nắng đẹp của đầu năm...
Dư Thị Diễm Buồn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Mùa Phượng Tím-Áo Quốc. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by dtdb chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, March 13, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang